Thưa ông, đâu là sự khác nhau căn bản giữa công việc kiểm toán và soát xét BCTC?
Xét về mặt quản lý nhà nước, tại nhiều nước việc soát xét BCTC quý, 6 tháng là không bắt buộc mà chỉ bắt buộc kiểm toán BCTC năm (báo cáo pháp lý chính thức để quyết toán thuế, lãi để chia cổ tức). Việc thực hiện soát xét BCTC chỉ thực hiện xuất phát từ nhu cầu của người sử dụng.
Tại Việt Nam, không phải đến bây giờ, khi dự thảo thông tư thay thế Thông tư 38/2007/TT-BTC mới đề cập đến vấn đề này, mà một số DN đã làm từ trước do thấy cần thiết. Nhận thấy các DN cần làm nên tới đây Nhà nước sẽ có quy định bắt buộc.
So với kiểm toán, việc thực hiện soát xét nhẹ nhàng hơn. Kiểm toán là dịch vụ mà kiểm toán viên phải ra một báo cáo kiểm toán, trong đó xác nhận đảm bảo những nội dung số liệu trong BCTC là trung thực và hợp lý. Nếu không sẽ phải đưa ra các điểm ngoại trừ hoặc từ chối đưa ra ý kiến kiểm toán… Kết luận trong báo cáo kiểm toán chỉ là một số từ ngữ rất ngắn gọn, nhưng nó đảm bảo và chịu trách nhiệm cao trước xã hội. Nhưng đối với báo cáo soát xét thì chỉ đưa ra kết luận đảm bảo ở mức độ vừa phải. Để làm kiểm toán, thủ tục rất phức tạp và mất nhiều thời gian. Vào thời điểm kết thúc năm, kiểm toán viên phải tham gia công việc kiểm kê, kiến nghị các vấn đề đền bù, xử lý, đối chiếu công nợ, lãi, lỗ phải kết luận rõ ràng… Do đó, trách nhiệm trước xã hội của kiểm toán viên là rất cao. Soát xét thì không cần như thế mà chỉ là kiểm tra giữa kỳ. Cách kiểm kê đơn giản, nhanh gọn hơn. Ví dụ, hàng tồn kho chỉ kiểm kê đột xuất một số mặt hàng; công nợ chỉ đối chiếu khi có nghi vấn…
Như vậy, NĐT có thể tin tưởng báo cáo soát xét đến đâu, thưa ông?
Công việc soát xét sẽ giúp DN niêm yết đưa ra BCTC đã được soát xét kèm theo báo cáo kết quả soát xét của kiểm toán viên. Mức độ đảm bảo của báo cáo kết quả soát xét chỉ ở mức độ vừa phải. Bản thân công việc soát xét không làm tất cả những thủ tục của kiểm toán. Phạm vi, thủ tục, cơ sở của việc đưa ra ý kiến trong báo cáo soát xét cũng hẹp hơn báo cáo kiểm toán.
Tôi cho rằng, NĐT có thể tin tưởng vào BCTC đã có báo cáo kết quả soát xét đi cùng với kết luật: "Trên cơ sở soát xét, công ty kiểm toán không thấy có sự kiện nào để cho rằng BCTC kèm theo là không phản ánh trung thực và hợp lý trên các khía cạnh trọng yếu phù hợp với chuẩn mực kế toán Việt Nam và các quy định pháp lý có liên quan". Báo cáo kết quả soát xét với ý kiến như trên là không khẳng định hoàn toàn nhưng cũng cho biết rằng không có gì sai sót lớn cả. Nếu kiểm toán viên phát hiện ra sai sót lớn thì cũng nêu rõ trong báo cáo kết quả soát xét. Như vậy, dù thế nào thì BCTC có soát xét vẫn tốt hơn BCTC không có soát xét.
Có thể nói, lần đầu tiên có nhiều DN soát xét BCTC như kết thúc quý II vừa qua. Ông rút ra những vấn đề gì từ câu chuyện này?
Thứ nhất, việc soát xét BCTC bán niên là cần thiết, vì thông qua soát xét, kiểm toán viên đã giúp DN chấn chỉnh công việc kế toán trong 6 tháng đầu năm. Nếu có gì sai sẽ xử lý ngay và không bị lặp lại trong 6 tháng cuối năm. Thứ hai là NĐT có thể yên tâm với những báo cáo soát xét mà có ý kiến kiểm toán viên là không có sai sót lớn, kết quả kinh doanh của 6 tháng được coi là hợp lý.
Thông qua đợt soát xét BCTC bán niên vừa qua, tôi cho rằng, về phía DN, công ty kiểm toán, Nhà nước cần có sự chuẩn bị chu đáo hơn thì năm sau mới có thể phát huy được kết quả của công tác soát xét. Xét về mặt quản lý, Nhà nước cần sớm ban hành văn bản quy định thực hiện soát xét. Văn bản này cần hướng dẫn kỹ càng và ban hành ngay trong năm nay để mọi đối tượng hiểu và có thời gian chuẩn bị. Phía DN cần ký hợp đồng kiểm toán sớm hơn, trong hợp đồng phải nói rõ ràng là có thực hiện soát xét 6 tháng. Thậm chí, có thể ký hợp đồng từ 2 đến 3 năm (ĐHCĐ cũng có thể quyết định vấn đề này). Phòng tài chính của các DN niêm yết cũng cần có sự chuẩn bị số liệu cho việc thực hiện soát xét BCTC bán niên vào thời gian phù hợp.
Nhiều DN thực hiện soát xét BCTC bán niên nhưng khi công bố lại bỏ qua báo cáo đã soát xét. Ông nghĩ gì về điều này?
Đây là một sự tùy tiện cần được chấn chỉnh ngay nhằm khắc phục tâm lý "tốt đẹp phô ra, xấu xa che lại". Do chưa có quy định nên hiện DN vẫn hành xử như vậy. Các Sở GDCK cần yêu cầu DN niêm yết bổ sung hồ sơ nếu thiếu; kiên quyết không nhận những BCTC chỉ ghi là đã soát xét mà không có báo cáo kết quả soát xét đi cùng.
NĐT phải yêu cầu DN niêm yết đăng kèm BCTC toàn bộ báo cáo kết quả soát xét, hoặc tối thiểu phải là phần ý kiến kiểm toán viên, tên công ty kiểm toán. Nếu BCTC chỉ nói là đã soát xét, đã kiểm toán mà không kèm theo các báo cáo trước thì coi như là chưa thực hiện soát xét, kiểm toán. Tại nhiều nước, BCTC kiểm toán còn đăng cả mức phí thực hiện kiểm toán để NĐT giám sát xem với mức phí đó thì chất lượng bản báo cáo kiểm toán có đảm bảo hay không.