Trong khi một số doanh nghiêp xi măng trong ngành được các tập đoàn quốc tế để mắt và thương thảo mua lại, thì nhìn chung toàn ngành, nguy cơ các nhà máy xi măng bị khánh kiệt tài chính, phá sản hàng loạt đang rất gần.
Công suất thấp
Xi măng lại là loại hàng hóa không thể lưu kho nhiều với yêu cầu bảo quản, chống ẩm ướt cao nên không thể sản xuất sẵn theo năng lực máy móc rồi dự trữ. Chi phí đảo kho thủ công rất tốn kém.
Vì vậy, vấn đề không phải tồn kho bao nhiêu mà là vấn đề các nhà máy hiện đang khai thác công suất như thế nào. Hiện nay, toàn ngành đang chạy với công suất rất thấp, chỉ khoảng 65% so với mức bình thường của các nước khác là trên 85%. Tổng xi măng tiêu thụ năm 2012 dự kiến chỉ khoảng 45 triệu tấn (giảm 9% so với 2011) trong khi tổng công suất hiện vào khoảng 73 triệu tấn, bao gồm cả 8 nhà máy mới dự kiến có thể đi vào hoạt động năm 2012.
Mặc dù có nhiều nhà máy xi măng đang hoạt động với công suất cao, thậm chí vượt 100% như Xi măng Thăng Long, Xi măng Sông Gianh nhưng trên bình diện chung nếu toàn ngành hoạt động với công suất này sẽ không thể có lãi do chi phí cố định bao gồm khấu hao, lãi vay, chi phí quản lý sẽ là quá lớn tính trên 1 tấn xi măng sản xuất.
Tốc độ tăng giá bán không đủ bù chi phí
Mặc dù là nước đang phát triển với nhu cầu xây dựng dân dụng và công nghiệp lớn, tăng trưởng Cầu về xi măng thuộc nhóm đứng đầu thế giới (sau Trung Quốc, UAE) với tỉ lệ tang trưởng luôn trên 10% từ 2000 - 2010. Tuy nhiên, nghịch lý là giá bán xi măng trên thị trường Việt
Cả hai vấn đề khai thác không hết công suất, không thể tăng giá bán đều xuất phát từ một nguyên nhân chủ đạo đó là tình trạng dư thừa công suất, hệ quả của việc quy hoạch không chính xác đã để ngành xi măng phát triển quá nóng trong một thời gian ngắn (từ 2006 – 2010). Từ việc luôn thiếu hụt xi măng phải nhập khẩu clinker để sản xuất xi măng, từ 2010 Việt Nam đã bắt đầu xuất khẩu (clinker) và đến 2012 trở thành Top 10 quốc gia xuất khẩu (Clinker) do tình trạng thừa công suất. Cần biết rằng xuất khẩu clinker chỉ là giải pháp tình thế khi giá xuất khẩu thấp và năng lực cạnh tranh trong lĩnh vực logistic của Việt
Dưới áp lực trả nợ vay đầu tư, đầu năm 2012 đã xuất hiện hiện tượng bán phá giá để giải phóng nhanh tồn kho.
Chỉ trong vòng 5 năm, năng lực sản xuất xi măng tại Việt
Gánh nặng lãi vay
Ngành công nghiệp xi măng đã từng nhận được sự hậu thuẫn lớn từ Chính phủ để đẩy mạnh phát triển. Hàng loạt nhà máy xi măng đã ra đời (giai đoạn từ 2006 – 2010) do tiếp cận được nguồn vốn vay rẻ và tương đối dễ dàng từ trong và ngoài nước, đặc biệt là các doanh nghiệp xi măng của Nhà nước và một số doanh nghiệp tư nhân được chống lưng bởi các hợp đồng bảo lãnh vốn vay từ phía Chính phủ.
Điều này dẫn tới việc lạm dụng đòn bẩy tài chính trong các dự án đầu tư xây dựng nhà máy xi măng. Riêng 22 doanh nghiệp xi măng đại chúng cuối 2011 có hệ số Vốn vay/Vốn Chủ sở hữu ở mức 3,2(2010: 2,9). Trong đó có nhiều nhà máy có mức độ đòn bẩy cao như Xi măng Lạng Sơn (6,6 lần), Hà Tiên 1 (5 lần), Bỉm Sơn (4,2) và Bút Sơn (3,3). Một số nhà máy xi măng khác như Xi măng Cẩm phả, Xi măng Thăng Long có hệ số đòn bẩy tài chính trên 10 lần. Ngoài ra, theo báo cáo về các dự án xi măng 7 tháng năm 2011 của Bộ Xây dựng, trong số 16 dự án xi măng được Chính phủ bảo lãnh, có 4 dự án đang gặp khó khăn về trả nợ. Bộ Tài chính phải trả nợ thay. Đến nay có 16 dự án đầu tư nhà máy xi măng và trạm xi măng được Chính phủ bảo lãnh vốn đầu tư, trong đó 15 dự án bảo lãnh qua Bộ Tài chính và một dự án bảo lãnh qua Ngân hàng Nhà nước.
Thực tế hiện tại hàng loạt nhà máy đang bên bờ vực phá sản. 5 nhà máy xi măng Đồng Bành, Hạ Long, Thái Nguyên, Tam Điệp và Hoàng Mai đều đang trong tình trạng khó có khả năng thanh toán các khoản vay nước ngoài. Riêng xi măng Đồng Bành (vốn được kỳ vọng sẽ là cánh chim đầu đàn trong các doanh nghiệp xi măng Nhà nước) đã nợ tới 45 triệu USD từ các ngân hàng nước ngoài như ANZ, Fortis Banque France SA và Bangkok Bank, trong đó Chính phủ mới chỉ trả được thay 3,5 triệu USD.