85% người tiêu dùng Việt Nam có xu hướng sử dụng ngân hàng số nhiều hơn trong tương lai

85% người tiêu dùng Việt Nam có xu hướng sử dụng ngân hàng số nhiều hơn trong tương lai

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK) Người tiêu dùng Việt Nam sẵn sàng trả phí cao cho các dịch vụ tài chính tiết kiệm thời gian và linh hoạt hơn. 

Báo cáo “Các bộ lạc tài chính bạn cần biết” của Mambu tiết lộ rằng, 61% người tiêu dùng trên toàn cầu đã sử dụng các dịch vụ ngân hàng số nhiều hơn trong 18 tháng qua và 41% lần đầu tiên sử dụng các dịch vụ ngân hàng số do tác động của đại dịch. Ở Việt Nam, các con số này cao hơn, lần lượt là 70% và 54%.

Đây là báo cáo mới nhất nằm trong chuỗi nội dung ‘Disruption Diaries’ của Mambu, khảo sát 4.500 người tiêu dùng trên toàn cầu, bao gồm cả người tiêu dùng Việt Nam (chiếm 11% tổng số người được hỏi). Báo cáo xác định năm “bộ lạc” tài chính mới nổi mà các ngân hàng cần biết trong thế giới sau đại dịch. Những nhóm người tiêu dùng chính này bao gồm:

Nhà thúc đẩy công nghệ (Techcelerators)

Họ là những người gần đây “di dân” sang thế giới ngân hàng số, đã sử dụng các dịch vụ số trong bối cảnh các chi nhánh thực phải đóng cửa.

Nhóm này là “bộ lạc” lớn nhất trên toàn cầu, chiếm một phần ba (33%) tổng số người được hỏi. Với 57% ở độ tuổi trên 35, nhóm này có xu hướng sử dụng thường xuyên hơn các dịch vụ và ngân hàng số trong 18 tháng qua.

Phần lớn người Việt Nam nằm trong nhóm Nhà thúc đẩy công nghệ, với 33% người được hỏi thể hiện đặc điểm của nhóm này.

Người sử dụng ngân hàng có ý thức (Ethical bankers)

Đây là những người trẻ tuổi, hướng đến tiết kiệm có mục đích và mong muốn có thể tác động tích cực đến thế giới.

Với 49% ở độ tuổi từ 18 đến 34, “bộ lạc” này lớn thứ hai trên toàn cầu, chiếm 31% tổng số người được hỏi. Con số này ở Việt Nam nhỏ hơn (24%), tuy nhiên có đến 76% người tiêu dùng Việt Nam tham gia khảo sát sẵn sàng chi trả phí cao cho các dịch vụ tài chính mang lại lợi ích cho môi trường và cộng đồng địa phương – tỷ lệ cao nhất trong các thị trường khảo sát.

Người khao khát sự tiện lợi (Convenience cravers)

Những người mua sắm “một cửa” mong muốn các dịch vụ “tất cả trong một” gói gọn trong các thiết bị của họ, và không cần phải trả thêm phí.

Nhóm này chiếm 23% số người được hỏi trên toàn cầu và 15% tại Việt Nam. Họ chủ yếu là những người trung niên, hoặc người lớn tuổi, với 55% “dân số bộ lạc” trên 35 tuổi. Đây là nhóm có ít khả năng trả phí cao cho các dịch vụ tiết kiệm thời gian và linh hoạt. Họ mong muốn tiêu chuẩn dịch vụ khách hàng cao.

Doanh nhân thời Covid (Covidpreneurs)

Nhóm này bao gồm các doanh nhân đã thành lập doanh nghiệp của riêng mình trong thời kỳ đại dịch, cần các dịch vụ ngân hàng cho doanh nghiệp dễ sử dụng và đáng tin cậy.

Doanh nhân thời Covid là “bộ lạc” trẻ nhất trên toàn cầu, với 64% dưới 35 tuổi và 25% dưới 25 tuổi. Phần lớn nhóm này cho rằng các dịch vụ kinh doanh thuận lợi là quan trọng đối với một ngân hàng và có nhiều khả năng đầu tư vào tài sản truyền thống. 14% khách hàng Việt Nam trong khảo sát nằm trong “bộ lạc” này.

Nhà tích trữ tài sản kiểu mới (Neo asset hoarders)

Đây là những chủ sở hữu tài sản mới muốn sử dụng các dịch vụ tài chính để mua, giao dịch và nắm giữ tài sản. Mặc dù là “bộ lạc” nhỏ nhất, nhưng nhóm này đang phát triển với tốc độ chóng mặt trên toàn cầu. 66% trong số họ là nam giới và hơn một nửa ở độ tuổi dưới 35.

Phần lớn họ sở hữu các loại tài sản kiểu mới, như tiền điện tử (75%) và NFT (một loại tài sản kỹ thuật số sử dụng công nghệ blockchain) (26%). Họ có xu hướng cho rằng khả năng mua, bán hoặc quản lý các tài sản kiểu mới là quan trọng với một ngân hàng. 14% người tiêu dùng Việt Nam được hỏi thuộc về nhóm này.

Ông Eugene Danilkis, Giám đốc điều hành Mambu cho biết, mỗi “bộ lạc” đại diện cho những hành vi tiêu biểu về cách người tiêu dùng đang thích ứng với tình hình, thông qua đó, ngân hàng biết cần phải làm gì để đi trước xu hướng.

Phân khúc đối tượng một cách truyền thống cho các dịch vụ tài chính đã bị phá vỡ. Mô hình “một loại hình phù hợp với tất cả”, trong đó khách hàng được phân khúc theo số tiền họ kiếm được hoặc dựa trên những yếu tố nhân khẩu học đơn giản, sẽ trở thành dư thừa trong thế giới tài chính mở.

“Nếu ngân hàng muốn tồn tại, họ phải nghĩ về cách làm thế nào để kết nối với các nhóm mới trong xã hội, và thu hút họ bằng các sản phẩm cũng như những trải nghiệm tương xứng với giá trị của ngân hàng và đáp ứng được nhu cầu của người sử dụng. Trên toàn thế giới, chúng tôi có hơn 50 triệu người dùng cuối trên nền tảng Mambu, điều này chứng tỏ nhu cầu đang gia tăng đối với các sản phẩm tài chính mới và được hỗ trợ bởi kỹ thuật số”, ông Eugene Danilkis nói.

Ông Phạm Quang Minh, Tổng giám đốc Mambu tại Việt Nam chia sẻ, quá trình chuyển đổi số trong lĩnh vực ngân hàng đang được đẩy mạnh tăng tốc ở Việt Nam để đáp ứng sự thay đổi trong hành vi tiêu dùng của khách hàng ở kỷ nguyên mới. Điều đó cũng được thể hiện trong báo cáo này của chúng tôi với 87% khách hàng Việt Nam được hỏi đồng ý với tầm quan trọng của các dịch vụ ngân hàng trực tuyến và kỹ thuật số trong một ngân hàng hay một tổ chức tín dụng.

Cũng theo ông Minh, các con số khảo sát khách hàng Việt Nam cũng chỉ ra rằng, phần lớn (80% người tham gia khảo sát) thích tiết kiệm và đầu tư hơn là tiêu tiền – tỷ lệ cao nhất trong các thị trường khảo sát; hơn 74% khách hàng sẵn sàng trả phí cao cho các dịch vụ tài chính giúp họ tiết kiệm thời gian và mang lại sự linh hoạt hơn; hay gần 90% người trả lời tại Việt Nam sử dụng dịch vụ ngân hàng trực tuyến để thanh toán, chuyển tiền và kiếm tra số dư tài khoản.

"Những số liệu này sẽ hữu ích cho các ngân hàng Việt Nam trong việc nắm bắt thói quen và hành vi của người tiêu dùng, từ đó có thể tạo ra các dịch vụ, sản phẩm trực tuyến và kỹ thuật số hiệu quả, thu hút khách hàng hơn”, ông Minh nêu quan điểm.

Ông Tom Cheesewright, nhà tương lai học ứng dụng cho biết thêm, ngành tài chính và ngân hàng, vốn là một ngành “di sản”, đã bị lung lay từ gốc rễ bởi nhu cầu kỹ thuật số đột ngột phát triển và áp đảo. Hệ quả của việc cách ly diễn ra trên toàn thế giới là lực đẩy cho bước tiến vào tương lai kỹ thuật số, tạo nên sự thay đổi bất ngờ trong quan điểm về ngân hàng trực tuyến, điều mà trước đây dự đoán sẽ mất nhiều năm.

"Các ngân hàng có kế hoạch chuyển đổi dựa trên các giả định trước COVID đã bị bỏ lại phía sau, bởi khách hàng đã tìm ra những cách mới để quản lý tài sản trong đại dịch, như đã được minh họa bởi các “bộ lạc” trong báo cáo. Áp lực hiện tại đối với các tổ chức tín dụng là phải chứng minh rằng họ có thể giải được bài toán này dựa trên đạo đức, hiệu quả và sự đổi mới”, ông Tom Cheesewright nói.

Tin bài liên quan