Theo dự thảo Đề án, việc triển khai áp dụng chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế sẽ trải qua 2 giai đoạn. Là doanh nghiệp tiên phong áp dụng IFRS từ rất sớm, BVH có thể cho biết các bước chính mà doanh nghiệp cần chuẩn bị trước khi bước vào giai đoạn 1 là gì?
Là doanh nghiệp có kinh nghiệm thực tiễn 10 năm triển khai chuyển đổi báo cáo tài chính từ Chuẩn mực báo cáo tài chính Việt Nam (VAS) sang Chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế (IFRS), chúng tôi cho rằng, để có thể chuẩn bị tốt cho việc lập báo cáo tài chính theo IFRS, các doanh nghiệp tham gia trong giai đoạn 1 của Đề án IFRS cần chuẩn bị các bước sau.
Thứ nhất, doanh nghiệp xây dựng quy trình lập báo cáo tài chính theo IFRS cho riêng doanh nghiệp của mình và tiến hành cập nhật thường xuyên.
Thứ hai, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ lập báo cáo. Doanh nghiệp cần tạo điều kiện và có kế hoạch kinh phí hàng năm để cử cán bộ kế toán tham gia các khóa học, đào tạo trong nước và quốc tế với giảng viên là các chuyên gia giàu kinh nghiệm về IFRS.
Đồng thời, tổ chức các buổi hội thảo nội bộ, đào tạo cũng như chia sẻ kiến thức và kinh nghiệm lập báo cáo tài chính theo IFRS giữa công ty mẹ và các công ty thành viên, hoặc giữa trụ sở chính và các chi nhánh.
Cùng với đó, doanh nghiệp khuyến khích bản thân kế toán viên không ngừng cố gắng tự trau dồi, nghiên cứu, cập nhật kiến thức về IFRS bằng cách tham dự các buổi hội thảo cập nhật kiến thức IFRS của Bộ Tài chính, các hiệp hội nghề nghiệp kế toán, hiệp hội ACCA, tham gia học và thi lấy các chứng chỉ kế toán quốc tế.
Thứ ba, ban lãnh đạo doanh nghiệp tích cực tham gia trong suốt quá trình triển khai áp dụng IFRS. Lãnh đạo doanh nghiệp cần đưa ra các quyết định quan trọng trong cách thức tiến hành công việc, trực tiếp tuyển dụng nhân sự phù hợp. Bên cạnh đó, ban lãnh đạo chủ động tìm kiếm và lựa chọn đội ngũ tư vấn đủ năng lực hỗ trợ doanh nghiệp trong việc triển khai áp dụng IFRS.
Chúng tôi hy vọng rằng, những chia sẻ này sẽ có ích cho các doanh nghiệp đang chuẩn bị bước vào giai đoạn 1 của Đề án lập báo cáo tài chính theo IFRS tại Việt Nam.
Trong từng giai đoạn, các doanh nghiệp cần lưu ý những gì?
Ông Phạm Ngọc Tú, Phó giám đốc phụ trách Khối Quản lý Tài chính, Tập đoàn Bảo Việt (BVH)
Với giai đoạn 1 từ năm 2022 đến 2025 (áp dụng IFRS tự nguyện), các doanh nghiệp cần nghiên cứu và tìm hiểu kỹ về các chuẩn mực IFRS và các tác động của IFRS lên báo cáo tài chính của doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, doanh nghiệp cần chuẩn bị cơ sở vật chất, hệ thống công nghệ thông tin và đào tạo nguồn nhân lực phục vụ cho việc lập báo cáo tài chính theo IFRS, đặc biệt là công tác công bố thông tin cho các cổ đông, nhà đầu tư về triển vọng của doanh nghiệp thông qua báo cáo tài chính có tính so sánh giữa VAS và IFRS, dựa trên các hướng dẫn của cơ quan quản lý và các chuẩn mực kế toán, kiểm toán.
Còn với giai đoạn 2, từ sau năm 2025 (bắt buộc lập báo cáo tài chính hợp nhất theo IFRS đối với tất cả các công ty mẹ của tập đoàn kinh tế nhà nước, tất cả các công ty niêm yết, các công ty đại chúng quy mô lớn là công ty mẹ chưa niêm yết), các doanh nghiệp nên tham khảo các doanh nghiệp cùng ngành đã áp dụng IFRS nhiều năm, các doanh nghiệp đã áp dụng IFRS từ giai đoạn 1 để rút kinh nghiệm và nhận biết những khác biệt trọng yếu giữa IFRS và VAS, nhằm phục vụ công tác chuyển đổi một cách nhanh chóng và chính xác nhất.
Ngoài ra, các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp niêm yết, cần thiết lập hệ thống và quy trình để đảm bảo tuân thủ các chuẩn mực kế toán áp dụng, tăng cường quản lý công tác lập và phân tích báo cáo tài chính, trong đó có yêu cầu tuân thủ chuẩn mực kế toán và kiểm toán nội bộ, đồng thời phải có sự thông hiểu và cập nhật IFRS để tránh vi phạm các yêu cầu của chuẩn mực và quy định của pháp luật. Đây không chỉ là nhân tố quan trọng ảnh hưởng tới sự minh bạch của báo cáo tài chính, mà còn ảnh hưởng tới danh tiếng của các doanh nghiệp niêm yết trên thị trường.
Đâu là những khó khăn mà các doanh nghiệp có thể phải đối mặt khi chuyển đổi báo cáo tài chính theo IFRS?
Khi IFRS được áp dụng ở Việt Nam, các doanh nghiệp có thể gặp nhiều khó khăn.
Thứ nhất, thị trường vốn và thị trường tài chính chưa phát triển đủ mạnh, trong khi IFRS hướng đến việc trình bày các khoản mục của báo cáo tài chính theo giá trị hợp lý, phù hợp với diễn biến của nền kinh tế thị trường tại thời điểm báo cáo.
Thứ hai, một số chính sách, cơ chế, hướng dẫn và khung pháp lý chưa hoàn thiện, do vậy các doanh nghiệp thiếu căn cứ pháp lý để lập báo cáo tài chính theo IFRS.
Thứ ba, áp dụng IFRS đòi hỏi hệ thống kết nối thông tin và phần mềm kế toán của doanh nghiệp hiện đại, đáp ứng được yêu cầu cập nhật thông tin nhanh chóng và kịp thời, nên các doanh nghiệp phải bỏ ra một khoản chi phí ban đầu rất lớn. Đồng thời, doanh nghiệp phải bỏ ra một khoản chi phí để đào tạo lại các nhân viên kế toán và điều này không phải doanh nghiệp nào cũng có thể đáp ứng được ngay.
Thứ tư, trình độ, năng lực chuyên môn và ngoại ngữ của nhân viên kế toán tại nhiều doanh nghiệp chưa đáp ứng để áp dụng ngay IFRS, nhất là khi IFRS được thiết lập theo phương pháp dựa trên nguyên tắc linh hoạt, trong khi các quy định pháp luật kế toán của Việt Nam thường được xây dựng chủ yếu mang tính quy tắc (luật) rất cao. Vì vậy, khi áp dụng IFRS, doanh nghiệp sẽ không tránh khỏi bỡ ngỡ, chưa kịp thích nghi với cách tiếp cận của thông lệ quốc tế.
Thứ năm, đối với cán bộ cơ quan thuế, nhiều người chưa nắm rõ về IFRS nên khi doanh nghiệp lập báo cáo tài chính theo IFRS dẫn đến chênh lệch giữa thu nhập chịu thuế và lợi nhuận kế toán, điều đó sẽ gây ra tranh luận cho cả doanh nghiệp và cơ quan thuế.
Nói tóm lại, việc áp dụng IFRS là một thách thức về mức độ phát triển của thị trường, trình độ, năng lực chuyên môn, ngoại ngữ đối với nhân viên kế toán, kiểm toán, các nhà đầu tư và cả nhà quản lý. Áp dụng IFRS đòi hỏi sự nỗ lực lớn từ phía các doanh nghiệp và những người làm công tác kế toán, cũng như cần sự phối hợp đồng bộ của Chính phủ, các cơ quan, ban ngành liên quan, nhằm điều chỉnh môi trường kinh tế, pháp luật, đáp ứng hội nhập kinh tế quốc tế.
Theo ông, nguồn lực về kiểm toán viên hiện nay liệu có đảm bảo nhu cầu thị trường cả về chất và lượng khi cả 700 doanh nghiệp niêm yết phải được kiểm toán theo chuẩn quốc tế (nếu dự thảo được thông qua)? Kinh nghiệm quốc tế đối với vấn đề này như thế nào?
Theo thống kê đến ngày 1/4/2019 của Bộ Tài chính, hiện có 187 doanh nghiệp kiểm toán đủ điều kiện kinh doanh dịch vụ kiểm toán với khoảng hơn 11.000 nhân viên, trong đó có khoảng 2.100 kiểm toán viên được cấp giấy chứng nhận đăng ký hành nghề kiểm toán và trên 700 kiểm toán viên được kiểm toán đơn vị có lợi ích công chúng.
Chúng tôi cho rằng, số lượng kiểm toán viên hiện nay có thể đáp ứng được nhu cầu của thị trường kể từ sau năm 2025 (năm dự kiến áp dụng bắt buộc IFRS với các doanh nghiệp nằm trong danh sách yêu cầu của Bộ Tài chính).
Về chất lượng kiểm toán viên, Bộ Tài chính có lộ trình từ năm 2019 đến 2021 chuẩn bị các điều kiện cần thiết để triển khai thực hiện đề án. Do đó, nếu đề án này được phê duyệt và với giả định là Bộ Tài chính có lộ trình, hướng dẫn chi tiết, cụ thể, thì các công ty kiểm toán sẽ phối hợp với các tổ chức nghề nghiệp, trường đại học để tiến hành tập huấn, đào tạo bổ sung kiến thức về IFRS cho đội ngũ kiểm toán viên hiện có cũng như đào tạo mới lượng kiểm toán viên nhằm đáp ứng yêu cầu của thị trường.
Về kinh nghiệm quốc tế, theo tài liệu của Ủy ban Chuẩn mực kế toán quốc tế (IASB), tính đến nay đã có 131/143 quốc gia và vùng lãnh thổ tuyên bố về việc cho phép áp dụng IFRS dưới các hình thức khác nhau. Chúng tôi cho rằng, việc áp dụng IFRS ở bất cứ quốc gia nào ban đầu cũng đều gặp nhiều khó khăn, trở ngại, nhưng sau khoảng 3 đến 5 năm thì đều đạt được những thành công nhất định. Đội ngũ kiểm toán tại Việt Nam về cơ bản có trình độ chuyên môn tốt, được trau dồi, đào tạo bổ sung kiến thức thường xuyên nên chất lượng kiểm toán viên không phải là một trở ngại đáng kể trong quá trình áp dụng IFRS ở Việt Nam.
Theo nội dung của dự thảo, việc triển khai Đề án IFRS được trải qua 2 giai đoạn: giai đoạn 1 từ năm 2022 đến 2025 (áp dụng IFRS tự nguyện); giai đoạn 2 từ sau năm 2025 (doanh nghiệp niêm yết bắt buộc lập báo cáo tài chính theo IFRS).
Từ năm 2019 đến hết năm 2021, Bộ Tài chính chuẩn bị các điều kiện cần thiết triển khai thực hiện Đề án để đảm bảo hỗ trợ các doanh nghiệp bắt đầu áp dụng IFRS từ năm 2022 như: công bố bản dịch IFRS ra tiếng Việt, đào tạo nguồn nhân lực, xây dựng các hướng dẫn áp dụng IFRS…
Theo UBCK, tính đến nay đã có 131/143 quốc gia và vùng lãnh thổ tuyên bố việc cho phép áp dụng IFRS dưới các hình thức khác nhau.