Việt Nam - Ngôi sao đang lên
Đầu tháng 3/2025, Hiệp hội Doanh nghiệp châu Âu tại Việt Nam (EuroCham) đã có cuộc đối thoại cùng Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính để xác định các ưu tiên thương mại và đầu tư, cải cách chính sách và thủ tục cùng các giải pháp nhằm nâng cao sức hấp dẫn của Việt Nam đối với các nhà đầu tư châu Âu.
Giai đoạn hiện tại, với sự vươn mình và nhiều cải cách về mặt thể chế tại Việt Nam, các nhà đầu tư châu Âu đang ngày càng quan tâm nhiều hơn đến việc dịch chuyển dòng vốn vào nước ta.
Ông Bruno Jaspaert - Chủ tịch EuroCham cho biết, 75% doanh nghiệp châu Âu đánh giá Việt Nam là điểm đến đầu tư hấp dẫn. EuroCham cũng khuyến nghị Việt Nam đẩy mạnh chiến lược xây dựng thương hiệu quốc gia, khẳng định vị thế không chỉ là điểm đến du lịch, mà còn là trung tâm đầu tư năng động, cạnh tranh trên trường quốc tế.
Còn ngài Julien Guerrier - Đại sứ Liên minh Châu Âu (EU) tại Việt Nam nhấn mạnh cam kết của EU trong việc hỗ trợ Việt Nam chuyển đổi xanh và hiện đại hóa nền kinh tế.
Ngài Đại sứ khẳng định, châu Âu sẵn sàng mở rộng đầu tư, chuyển giao công nghệ và tạo thêm nhiều cơ hội tại Việt Nam, đồng thời chỉ ra rằng, kim ngạch thương mại song phương giữa EU và Việt Nam đã đạt hơn 68 tỷ USD vào năm 2024, với Hiệp định Thương mại tự do EU - Việt Nam (EVFTA) đóng vai trò then chốt trong sự tăng trưởng này.
Việc thực thi đầy đủ và hiệu quả EVFTA sẽ là nền tảng vững chắc để quan hệ đối tác EU - Việt Nam tiến xa hơn nữa. Sự phát triển này đồng nghĩa với nhu cầu tiếp tục cải thiện môi trường hấp dẫn cho các nhà đầu tư nước ngoài tại Việt Nam với các quy định rõ ràng, dễ dự đoán, áp dụng nhất quán trên các địa phương cả nước và quy trình ra quyết định nhanh chóng.
Ghi nhận của Báo Đầu tư Chứng khoán cho thấy, các nhà đầu tư châu Âu đang dành nhiều sự quan tâm tới các cơ hội tại Việt Nam.
Từ đầu tháng 3/2025, nhiều hoạt động nhằm xúc tiến đầu tư, kết nối song phương được diễn ra, điển hình như Đối thoại cấp cao Đan Mạch - Việt Nam (từ ngày 3-6/3), Đoàn đại biểu Quốc hội Thụy Điển thăm Việt Nam để tăng cường quan hệ song phương (từ ngày 2-5/3)… Cùng với đó, các đối tác quen thuộc khác như Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan (Trung Quốc) cũng thể hiện sự quan tâm rất lớn tới việc mở rộng đầu tư vào Việt Nam.
Tránh dàn trải, tạo nhiều “điểm chạm”
Ông Trương Ngọc Minh - Giám đốc Công ty FIBIC, Giám đốc Xúc tiến đầu tư Cổng thông tin Khu công nghiệp Việt Nam (VIZ) cho hay, khi cân nhắc đầu tư vào Việt Nam, các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt từ Trung Quốc đại lục và Đài Loan, thường quan tâm đến 3 yếu tố cốt lõi, đó là cơ chế và chính sách ưu đãi thuế, hỗ trợ từ chính quyền địa phương; chất lượng hạ tầng và chuỗi cung ứng; tốc độ triển khai và mức độ sẵn sàng.
Theo đó, các nhà đầu tư tìm kiếm sự minh bạch, nhất quán trong chính sách, đặc biệt là các ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế nhập khẩu máy móc và hỗ trợ tuyển dụng lao động.
Chẳng hạn, ngành điện tử và ô tô yêu cầu chuỗi cung ứng ổn định, từ nhà máy linh kiện đến hệ thống logistics hỗ trợ. Khu công nghiệp nào có sẵn nguồn điện ổn định, hệ thống giao thông thuận tiện (so với cảng, sân bay, cao tốc gần nhất) và có cụm ngành hỗ trợ sẽ có lợi thế.
“Một điểm thấy rõ là các nhà đầu tư Trung Quốc và Đài Loan có xu hướng đưa ra quyết định và yêu cầu tiến độ triển khai nhanh đáng kể so với các nền kinh tế khác như Nhật Bản, châu Âu…, nhưng vẫn phải đảm bảo chất lượng theo yêu cầu. Vì vậy, những khu công nghiệp có sẵn mặt bằng, pháp lý rõ ràng và quy trình cấp phép nhanh sẽ có lợi thế cạnh tranh hơn”, ông Minh chia sẻ thêm.
Bên cạnh sự tích cực, hoạt động xúc tiến đầu tư vẫn còn những tồn tại. Ông Nguyễn Đình Nam - nhà sáng lập kiêm Tổng giám đốc Công ty cổ phần Xúc tiến và Hợp tác đầu tư Việt Nam (IPA Vietnam) cho hay, nhiều chương trình xúc tiến còn ôm đồm, đa ngành nghề, lĩnh vực mà lại thiếu sự chuyên sâu, không tập trung.
Đây là hạn chế lớn của công tác xúc tiến đầu tư vào các khu công nghiệp thời gian qua. Điều này dẫn đến thực trạng không ít doanh nghiệp làm khu công nghiệp không còn mặn mà với các chương trình “trống giong cờ mở”, thay vào đó là các chương trình nhỏ gọn, thông qua các đơn vị tư vấn để rút ngắn con đường tìm kiếm khách hàng.
Tương tự, đại diện một nhà phát triển hạ tầng khu công nghiệp chia sẻ, doanh nghiệp này từng tham gia nhiều hoạt động xúc tiến đầu tư và nhận thấy rằng, có một số tồn tại nếu khắc phục được thì hiệu quả sẽ cao hơn.
“Chẳng hạn, trong một chương trình xúc tiến đầu tư cho dự án, thường thì nhiều bên sẽ thay nhau tham gia thuyết trình và khiến việc này trở nên bão hòa. Do đó, các doanh nghiệp phải tìm cách tạo được điểm nhấn cho doanh nghiệp, dự án của mình.
Tương tự, với một chương trình xúc tiến của một địa phương, thay vì chỉ tập trung giới thiệu về địa phương, về chính sách thu hút đầu tư của địa phương mình, đơn vị xúc tiến phải mở ra một bức tranh rộng hơn của cả vùng, cả nước, sau đó mới nhấn vào các điểm nổi bật của địa phương để nhà đầu tư hiểu tại sao nên lựa chọn địa phương đó là điểm đến. Làm được như vậy sẽ thuyết phục hơn, thay vì chỉ cho họ thấy một phần của bức tranh thu hút đầu tư”, vị đại diện trên nêu dẫn chứng.
Ở góc độ khác, ông Trương Ngọc Minh cho rằng, trong kỷ nguyên công nghệ, việc tổ chức sự kiện xúc tiến offline như hội chợ, roadshow… vẫn rất quan trọng nhưng cần kết hợp với chiến lược số hóa để tiếp cận nhà đầu tư sớm và tiết kiệm hơn.
Thay vì chờ đợi họ đến Việt Nam tham quan, các khu công nghiệp có thể đẩy mạnh tiếp thị nội dung online, từ video case study thực tế, thông tin pháp lý dễ hiểu, đến các kênh như LinkedIn, WeChat... Đặc biệt, đối với các nhà đầu tư Trung Quốc đại lục và Đài Loan, các nền tảng như WeChat, 1688, Douyin và Baidu đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp thông tin và xây dựng lòng tin ban đầu.
Theo ông Minh, quy trình xúc tiến đầu tư hiệu quả cần có chiến lược tiếp cận đa kênh (có sự điều chỉnh cho từng doanh nghiệp) và tạo được nhiều “điểm chạm” cùng khách hàng.
Cụ thể, giai đoạn 1 - Nhận diện và thu hút (Awareness & Interest): Khách hàng không thể tin tưởng một thương hiệu mà họ chưa từng biết tới. Do đó, cần phân bổ nguồn lực vào xây dựng thương hiệu, xuất hiện tại các sự kiện ngành, đầu tư vào nội dung trực tuyến, tận dụng dữ liệu ngành để tiếp cận đúng đối tượng.
Tiếp theo, giai đoạn 2 - Kết nối và thuyết phục (Connect & Engagement): Doanh nghiệp cần chủ động tham gia và tổ chức các hội thảo chuyên sâu, làm việc với hiệp hội doanh nghiệp tại nước ngoài và Việt Nam. Từ đó, xây dựng hệ thống đối tác, agency chất lượng để cùng tiếp cận khách hàng.
Cuối cùng, giai đoạn 3 - Chuyển đổi và hỗ trợ đầu tư (Conversion): Đảm bảo quy trình hỗ trợ đầu tư mượt mà, chăm sóc khách hàng chu đáo, từ cấp phép, xây dựng đến tuyển dụng nhân sự.
“Trong tổng thể cả một quá trình, doanh nghiệp nào có thông tin tốt hơn, tiếp cận sớm hơn và xây dựng lòng tin thương hiệu từ trước đó tốt hơn sẽ là người quyết định được cuộc chơi của chính mình”, ông Minh nhấn mạnh.