Mức giảm trừ gia cảnh phải xét đến nhiều yếu tố

0:00 / 0:00
0:00
Theo PGS-TS. Lê Xuân Trường (Học viện Tài chính, Bộ Tài chính), việc xem xét nâng mức giảm trừ gia cảnh khi xác định thuế thu nhập cá nhân (TNCN) cần phải cân nhắc, tính toán dựa vào nhiều yếu tố, chứ không được theo cảm tính.
PGS-TS. Lê Xuân Trường (Học viện Tài chính, Bộ Tài chính)

PGS-TS. Lê Xuân Trường (Học viện Tài chính, Bộ Tài chính)

Bộ Tài chính bắt đầu lấy ý kiến đóng góp vào Dự thảo Luật Thuế TNCN thay thế luật hiện hành, trong đó, mức giảm trừ gia cảnh là một trong những nội dung được quan tâm nhiều nhất. Ông có thể chia sẻ thêm về vấn đề này?

Bản chất của giảm trừ gia cảnh là xác định mức khởi điểm chịu thuế sao cho sau khi nộp thuế thì phần thu nhập còn lại phải bảo đảm cho người nộp thuế và gia đình có được cuộc sống ở mức trung bình của xã hội trở lên. Với bản chất này, hầu hết các nước không đánh thuế TNCN đối với người có thu nhập từ mức trung bình trở xuống thông qua giảm trừ gia cảnh, đồng thời, thuế TNCN phải bảo đảm công bằng cả chiều ngang lẫn chiều dọc.

Công bằng theo chiều ngang là cá nhân có thu nhập như nhau phải nộp thuế như nhau; không đánh thuế đối với những người có thu nhập thấp trong xã hội; đánh thuế ở mức thấp đối với người có thu nhập trung bình và đánh lũy tiến đối với người có thu nhập cao hơn.

Công bằng theo chiều dọc là ai có nhiều người phụ thuộc hơn, thì nộp thuế ít hơn, thậm chí có thu nhập cao hơn vẫn nộp thuế ít hơn theo nguyên tắc, ai có khả năng nộp thuế cao hơn phải có nghĩa vụ đóng góp vào ngân sách nhà nước nhiều hơn.

Như vậy, thuế TNCN của Việt Nam đã tiếp cận với thông lệ quốc tế, phản ánh đúng bản chất của sắc thuế này. Năm 2020, Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành nghị quyết nâng mức giảm trừ gia cảnh cho người nộp thuế từ 9 triệu đồng/tháng, lên 11 triệu đồng/tháng và mỗi người phụ thuộc từ 3,6 triệu đồng/tháng lên 4,4 triệu đồng/tháng.

Nhiều người nộp thuế và chuyên gia kinh tế cho rằng, mức giảm trừ gia cảnh đang áp dụng là “không đủ chi tiêu”. Quan điểm của ông thế nào?

Tôi xin giải thích rõ hơn, mức giảm trừ hiện nay là người độc thân có thu nhập 11 triệu đồng/tháng (132 triệu đồng/năm), thì không phải nộp thuế, chỉ đánh thuế với số tiền vượt trên mức giảm trừ này theo biểu thuế lũy tiến từng phần.

Ví dụ, nếu cá nhân độc thân có thu nhập 16 triệu đồng/tháng, sau khi giảm trừ gia cảnh, chỉ phải nộp 250.000 đồng/tháng tiền thuế, với thuế suất 5%, như vậy, thu nhập sau thuế là 15,75 triệu đồng/tháng. Trường hợp có 1 người phụ thuộc, nếu thu nhập 15,4 triệu đồng/tháng (184,8 triệu đồng/năm), thì không phải nộp thuế.

Nhu cầu chi tiêu của mỗi người, mỗi gia đình là khác nhau, còn chính sách của Nhà nước áp dụng cho đại đa số người dân.

Tôi đã nghiên cứu về thuế TNCN của nhiều nước trên thế giới cũng như các nước trong khu vực. Mức giảm trừ gia cảnh so với GDP bình quân đầu người của Indonesia là bằng 0,7 lần; Thái Lan là 0,83 lần; Malaysia là 0,15 lần; Singapore từ 0,33 đến 0,4 lần; Anh, Đức, Mỹ lần lượt là 0,3; 0,22 và 0,17 lần. Còn với Việt Nam, mức giảm trừ gia cảnh là 1,1 lần, cao hơn rất nhiều so với các nước kể trên.

Tất nhiên, điều kiện xã hội, phúc lợi xã hội, y tế, giáo dục, thu nhập bình quân đầu người, thu nhập thực tế của người lao động... của các nước không giống nhau, nên rất khó so sánh mức giảm trừ gia cảnh.

Người nộp thuế mong muốn tăng giảm trừ để giảm số thuế phải nộp là chính đáng, nhưng một hệ thống thuế công bằng khi mà tỷ trọng đóng góp của thuế TNCN và giá trị gia tăng vào ngân sách nhà nước phải cao, thì mới có cơ hội giảm các loại thuế khác, Chính phủ có nguồn để chăm lo cho người thu nhập thấp, đối tượng yếu thế, miễn học phí từ bậc mầm non đến hết phổ thông trung học...

Tại một cuộc hội thảo về thuế TNCN được tổ chức mới đây, nhiều ý kiến kiến nghị nâng mức giảm trừ cho người nộp thuế, người phụ thuộc. Đó chỉ là quan điểm của cá nhân và các mức đề xuất còn rất cảm tính.

Vậy việc xác định mức giảm trừ gia cảnh cần căn cứ vào những yếu tố nào, thưa ông?

Từ sau khi nâng mức giảm trừ lên 11 triệu đồng/tháng (năm 2020), điều kiện kinh tế - xã hội có nhiều thay đổi, nên tôi đồng tình với việc nâng mức giảm trừ gia cảnh. Nhưng đề xuất ngay con số cụ thể là rất cảm tính, khi chưa cân nhắc mọi yếu tố.

Theo quy định, khi Chỉ số Giá tiêu dùng (CPI) tăng từ 20% trở lên, thì điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh. Từ năm 2020 trở lại đây, CPI tăng khoảng 20% và cần cộng thêm lạm phát của năm nay, năm 2026 để mức giảm trừ mới không sớm lạc hậu.

Tuy nhiên, giảm trừ phải xét đến nhiều yếu tố, như tăng lương tối thiểu vùng, tăng lương cơ sở, GDP/người, thu nhập của người dân... và phải cân đối với các chính sách miễn, giảm, gia hạn các loại thuế, phí, lệ phí, các nguồn thu khác.

Theo ông, nên điều chỉnh tăng mức giảm trừ gia cảnh vào thời gian nào?

Dự thảo Luật Thuế TNCN thay thế luật hiện hành mới đang ở giai đoạn đầu. Theo lộ trình dự kiến, thì năm 2026, Quốc hội thông qua và đến năm 2027, Luật mới có hiệu lực.

Mức giảm trừ gia cảnh hiện nay của Việt Nam cao hơn các nước trong khu vực và trung bình trên thế giới, nhưng điều kiện kinh tế, xã hội hiện tại đã khác nhiều so với năm 2020, nên theo tôi, Chính phủ cần sớm trình Ủy ban Thường vụ Quốc hội ra nghị quyết nâng mức giảm trừ lên càng sớm càng tốt và có thể áp dụng từ năm nay. Còn nâng mức giảm trừ lên bao nhiêu, thì phải tính toán rất kỹ, không chỉ bảo đảm nâng thu nhập cho người nộp thuế thông qua giảm nghĩa vụ với ngân sách nhà nước, mà còn phải tính đến dự toán thu ngân sách nhà nước.

Trong lần sửa thuế TNCN này, nên tính tới việc có thể giao Chính phủ điều chỉnh mức giảm trừ gia cảnh hằng năm. Theo đó, mức giảm trừ gia cảnh có thể được điều chỉnh tăng/giảm hoặc giữ nguyên, phụ thuộc vào các yếu tố như lạm phát, tăng lương; đồng thời, cần nâng mức giảm trừ cho người khuyết tật, đau ốm, người già... như nhiều nước trên thế giới đã thực hiện.

Tin bài liên quan