Trong bài viết về việc phát triển nền kinh tế tư nhân, Tổng Bí thư Tô Lâm đã khẳng định, khu vực kinh tế tư nhân đã giúp Việt Nam tăng thu nhập trung bình đầu người trên 50 lần, mở rộng sản xuất, thương mại, dịch vụ, nâng cao năng suất lao động, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và gia tăng năng lực cạnh tranh quốc gia trong vòng 40 năm phát triển.
Khu vực kinh tế tư nhân với số lượng gần 1 triệu doanh nghiệp, khoảng 5 triệu hộ kinh doanh cá thể, hiện đóng góp gần 60% vốn đầu tư toàn xã hội, khoảng 51% GDP, hơn 30% ngân sách Nhà nước và tạo ra hơn 40 triệu việc làm, chiếm hơn 82% tổng số lao động trong nền kinh tế.
Tuy nhiên, thực tế là khu vực kinh tế tư nhân đang gặp phải nhiều rào cản, đặc biệt về thể chế, gây ra những điểm nghẽn nghiêm trọng.
Trong cuộc gặp với báo chí mới đây, TS. Nguyễn Quốc Việt, Chuyên gia chính sách công, Trường Đại học Kinh tế (Đại học Quốc gia Hà Nội) đã gợi ý 3 giải pháp để kích thích khu vực kinh tế tư nhân phát triển, giúp tăng tỷ lệ đóng góp của vào sự phát triển chung của đất nước.
Thứ nhất là Chính phủ cần tiếp tục cải cách thể chế để tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi cho khu vực kinh tế tư nhân.
Bên cạnh những giải pháp giúp tháo gỡ “điểm nghẽn của điểm nghẽn”, phá bỏ những rào cản không thuận lợi, Việt Nam phải tập trung vào các vấn đề tiếp theo của doanh nghiệp, ví dụ như thuế. Vướng mắc không chỉ xuất hiện trong quá trình hoàn thuế, mà trong trường hợp doanh nghiệp phải đóng cửa hoặc kết thúc hoạt động, còn gặp khó khăn về nợ thuế hay đóng mã số thuế.
![]() |
TS. Nguyễn Quốc Việt, Chuyên gia chính sách công |
“Việc cải thiện môi trường kinh doanh không chỉ được xem xét, đánh giá trong giai đoạn đầu khi mời gọi các doanh nghiệp tham gia thị trường, mà còn phải đảm bảo suốt quá trình hoạt động của doanh nghiệp thuận lợi, an toàn. Nước ta cần có một môi trường pháp lý ổn định, minh bạch, dễ hiểu và dễ thực thi”, ông Việt nói.
Khi tiếp xúc với các doanh nghiệp, ông Việt nhận thấy hệ thống pháp luật hiện nay vẫn thiếu sự minh bạch và dễ hiểu, dẫn đến tình trạng người dân và doanh nghiệp gặp khó khăn trong việc áp dụng chính sách. Điều này cũng tạo ra một chi phí không cần thiết, trong kinh tế học gọi là chi phí giao dịch. Chính khoảng cách thông tin giữa người xây dựng chính sách và người thực thi chính sách có thể dẫn đến những hành vi trục lợi, chủ nghĩa thân hữu và sự bất bình đẳng trong môi trường kinh tế thị trường. Tình trạng này cần được khắc phục để các doanh nghiệp có thể phát triển bền vững và công bằng hơn.
Bên cạnh đó, hệ thống tư pháp cũng cần có những cải cách quyết liệt. Mặc dù nước ta đã có những bước tiến đáng kể trong cải cách môi trường kinh doanh, hệ thống hành chính và hỗ trợ thủ tục hành chính, nhưng sự vào cuộc của các cơ quan tư pháp hỗ trợ doanh nghiệp trong quá trình hoạt động vẫn chưa thực sự cải thiện về tính trách nhiệm và hiệu quả.
TS. Nguyễn Quốc Việt lấy ví dụ, khi doanh nghiệp vướng vào các tranh chấp hợp đồng, chiếm dụng vốn hay nợ đọng..., thì vấn đề thường kéo dài rất lâu. Đến khi có phán quyết của toà án hay trọng tài thì công tác thực thi cũng là bước "trần ai" mà các doanh nghiệp phải trải qua trong các vụ kiện tụng. Nếu cải cách được, đây cũng là một trong những yếu tố giúp doanh nghiệp giảm đi chi phí giao dịch.
Thứ hai, Nhà nước cần nâng cao năng lực cạnh tranh của nền kinh tế, đặc biệt là qua việc cải thiện cơ sở hạ tầng và chất lượng nguồn nhân lực.
Việc hỗ trợ doanh nghiệp về hạ tầng cứng và hạ tầng mềm là rất quan trọng để tiết giảm chi phí. Hiện chi phí kinh doanh của Việt Nam, từ hạ tầng đến logistics và các chi phí khác, vẫn còn khá cao so với các quốc gia trong khu vực. Mặc dù Việt Nam đã có những bước tiến trong việc kết nối hạ tầng, nhưng việc giảm các chi phí khác sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, cải thiện lợi nhuận biên, tăng năng suất kinh doanh, cũng như năng suất lao động.
Đối với cải thiện chất lượng nguồn nhân lực, việc kết nối doanh nghiệp với các trường đại học và tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao là một giải pháp thiết thực. Các trường đại học cần hợp tác chặt chẽ với doanh nghiệp để đào tạo nguồn nhân lực phù hợp với nhu cầu thực tế của thị trường lao động. Ví dụ, mô hình hợp tác giữa Tập đoàn Becamex và tỉnh Bình Dương thành lập trường đại học phục vụ hệ sinh thái khu công nghiệp, là một ví dụ điển hình cho sự kết nối giữa doanh nghiệp và giáo dục.
Ngoài ra, vai trò của Nhà nước trong việc đầu tư vào con người và các trường đại học cũng rất quan trọng. Nếu các trường đại học chỉ chạy theo cơ chế thị trường và sự tự chủ tài chính, sẽ chỉ tập trung vào những ngành học nóng có nhu cầu cao và khả năng trả học phí tốt, mà bỏ qua những ngành nghề mũi nhọn cần thiết cho sự phát triển của nền kinh tế. Do đó, Nhà nước cần hỗ trợ các trường đại học trong việc xây dựng chiến lược đào tạo phù hợp với nhu cầu thực tế của nền kinh tế.
Thứ ba, các chương trình hỗ trợ cả đầu cung lẫn đầu cầu cần phải được tập trung để tạo ra sức bật cho nền kinh tế.
Theo ông Việt, hiện nay, các chính sách trọng cung như hỗ trợ doanh nghiệp, thúc đẩy các ngành mũi nhọn để phát triển, chính sách về khoa học công nghệ và đầu tư vào con người, đều là những chính sách tốt. Tuy nhiên, trong một thị trường đầy đủ, cung và cầu cần phải đi đôi và được kết nối một cách nhuần nhuyễn.
Hiện Việt Nam đã có các chính sách hỗ trợ kích cầu tiêu dùng, khuyến khích người Việt ưu tiên sử dụng hàng Việt. Tuy nhiên, vấn đề là làm sao để kết nối việc sản xuất có trách nhiệm với việc tiêu dùng các sản phẩm mà Nhà nước định hướng? Làm sao để Việt Nam kích thích được lĩnh vực không chỉ để phục vụ xuất khẩu mà còn để đáp ứng nhu cầu của 100 triệu dân, hay những người muốn tiêu dùng các sản phẩm Made in Vietnam.
“Khi nguồn lực của Nhà nước có giới hạn, các chương trình hỗ trợ cả đầu cung lẫn đầu cầu cần phải được tập trung, trọng tâm và đủ lực để tạo ra sức bật cho nền kinh tế. Khi có sức bật, nó sẽ lan tỏa sang các ngành và lĩnh vực khác. Vì vậy, tôi kỳ vọng rằng sự kết nối nhuần nhuyễn giữa cung và cầu sẽ giúp nền kinh tế chúng ta có một sức bật tốt hơn. Qua đó, các thành phần kinh tế tư nhân, đặc biệt là những doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm mang thương hiệu Việt Nam sẽ lớn mạnh hơn”, ông Việt nhấn mạnh.