Kinh tế Việt Nam được đánh giá tăng trưởng khả quan trong ngắn hạn
Cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008 diễn ra trong bối cảnh nước ta vừa gia nhập WTO vào năm 2007. Tác động tiêu cực của cuộc khủng khoảng đó đã làm giảm tốc độ tăng trưởng, gây ra lạm phát cao, đồng tiền giảm giá, lãi suất tiền gửi và tiền vay liên tục phải điều chỉnh theo hướng tăng, làm giảm thu ngân sách và thu nhập thực tế của dân cư.
Trong 10 năm vừa qua, nền kinh tế nước ta sau khi vượt qua giai đoạn sụt giảm đã khôi phục dần tốc độ tăng trưởng.
Tốc độ tăng trưởng kinh tế sau mấy năm sụt giảm (chỉ đạt dưới 6%/năm), đã được khôi phục: năm 2015 đạt 6,68%, năm 2016 đạt 6,21% và năm 2017 đạt 6,81%; dự báo tình hình kinh tế - xã hội năm 2018 diễn biến theo hướng tích cực.
Trong 2 năm tiếp theo, nếu không có biến động lớn về kinh tế thế giới và cuộc cải cách tiếp tục theo hướng chủ động và mạnh mẽ, thì kinh tế Việt Nam có triển vọng tăng trưởng cao hơn và bền vững hơn.
Báo cáo về Viễn cảnh kinh tế toàn cầu ngày 6/6/2018, WB đã tăng 0,3 điểm phần trăm so với con số được đưa ra vào tháng 4, nâng tăng trưởng kinh tế Việt Nam năm 2018 lên 6,8%.
Standard Chartered Bank dự báo, tăng trưởng GDP của Việt Nam trong năm 2018 ở mức 6,8% và năm 2019 ở mức 6,9%. “Chúng tôi dự đoán Việt Nam sẽ đạt thặng dư thương mại ở mức vừa phải trong thời gian từ nay đến cuối năm nhờ xuất khẩu tăng trưởng mạnh mẽ và nhập khẩu chậm lại.
Tăng trưởng tín dụng nhanh vẫn là rủi ro lớn nhất đối với sự ổn định tài chính, tuy nhiên các biện pháp điều tiết gần đây đã phần nào giúp giảm thiểu rủi ro này. Lạm phát mặc dù gia tăng, nhưng ít có khả năng trở thành một mối quan ngại. Vốn FDI vào Việt Nam có khả năng sẽ tiếp tục duy trì ở mức cao trong năm 2018, dù giảm nhẹ so với năm 2017, trong đó lượng vốn chảy vào lĩnh vực sản xuất chiếm tỷ trọng cao nhất”, đại diện của Standard Chartered Bank nhận định.
Theo Standard Chartered Bank, Việt Nam đã có được nhiều lợi ích từ việc tham gia các hiệp định thương mại khu vực, dân số trẻ và được giáo dục tốt, lực lượng lao động ngày càng dồi dào, chi phí thấp. Những yếu tố này sẽ tiếp tục giúp Việt Nam thu hút mạnh mẽ dòng vốn FDI trong trung hạn”.
Trong khi đó, cơ quan chức năng của Việt Nam dự báo, tăng trưởng kinh tế của nước ta trong năm 2018 sẽ đạt 7,08%.
Nhìn chung, các tổ chức quốc tế và trong nước đều thống nhất về đánh giá triển vọng tích cực của kinh tế Việt Nam trong ngắn hạn; đồng thời cảnh báo những thách thức lớn đối với nước ta từ bên ngoài và bên trong đối với cả ngắn hạn và trung hạn.
Chủ động ứng phó với các thách thức mới
Chủ nghĩa bảo hộ mậu dịch, cuộc chiến tranh thương mại có thể diễn ra là 2 thách thức mới đối với nền kinh tế mở của nước ta. Hơn lúc nào hết, phương châm “đa dạng hóa, đa phương hóa” cần được thực hiện một cách chủ động và linh hoạt để ứng phó với diễn biến không bình thường trên thị trường thế giới.
Trong quan hệ thương mại quốc tế, Việt Nam cần tận dụng cơ hội do các FTA mới tạo ra để mở rộng quan hệ với nhiều đối tác, tạo lập tại mỗi thị trường chính một số mặt hàng chủ lực chiếm được thị phần ngày càng lớn, để trong trường hợp cần thiết có thể áp dụng biện pháp “có đi có lại” nhằm bảo vệ lợi ích của các doanh nghiệp xuất khẩu.
Năm 2017 đã minh chứng điều đó. Mặc dù thương mại hai chiều giữa Việt Nam và Mỹ tăng trưởng chậm lại, nhưng do đa phương hóa, nên tổng kim ngạch xuất khẩu vẫn tăng 21,1% và tổng kim ngạch nhập khẩu tăng 20,8% so với năm trước đó.
Trong đó, kim ngạch thương mại của nước ta với Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản tăng trưởng ở mức 2 con số. Với Trung Quốc, kim ngạch xuất khẩu đạt 35,463 tỷ USD, tăng 61,5%; kim ngạch nhập khẩu 58,23 tỷ USD, tăng 16,4%.
Với Hàn Quốc, kim ngạch xuất khẩu đạt 14,8 tỷ USD, tăng 30%, kim ngạch nhập khẩu đạt 46,734 tỷ USD, tăng 45,3%.
Với Mỹ, kim ngạch xuất khẩu đạt 41,608 tỷ USD, tăng 8,2%; kim ngạch nhập khẩu 9,203 tỷ USD, tăng 5,7% - thấp hơn nhiều so với năm 2016 khi kim ngạch xuất khẩu tăng 15% và kim ngạch nhập khẩu tăng 11,74%.
Mỹ từng là thị trường lớn nhất, chiếm 20% kim ngạch thương mại quốc tế của nước ta, nhưng năm 2017 đã giảm còn 11,95%.
Rajiv Biswas, chuyên gia kinh tế trưởng khu vực châu Á - Thái Bình Dương của IHS Markit khuyến cáo: “Việt Nam cần tạo thế mạnh cho chính mình để duy trì mối quan hệ hợp tác thương mại, nhưng cũng cần nỗ lực để cạnh tranh sòng phẳng trên thị trường toàn cầu...
Thay vì hướng tới một cực chủ yếu là Mỹ, cần hướng tới các thị trường tiềm năng khác như châu Âu, Nhật Bản, Nga... Việt Nam có lợi thế sở hữu nhiều FTA trên thế giới, giúp thu hút đầu tư từ bên ngoài vào cũng như giúp Việt Nam giảm nhẹ sự ảnh hưởng của xu hướng bảo hộ mậu dịch”.
Các bộ, ngành, chính quyền địa phương và doanh nghiệp cần theo dõi diễn biến thị trường thế giới, những thay đổi quyết định thường xuyên của Tổng thống Mỹ và giải pháp ứng phó của các quốc gia để cảnh báo sớm cùng những giải pháp đã được chuẩn bị trước để chủ động ứng phó, giảm thiểu thiệt hại cho doanh nghiệp và đất nước; đồng thời tìm kiếm cơ hội mới, thị trường mới để mở rộng hợp tác đầu tư và thương mại phục vụ cho chiến lược kinh tế - xã hội với tốc độ tăng trưởng cao, bền vững và nền kinh tế xanh.
Trong vài năm gần đây, nước ta đã bắt đầu áp dụng biện pháp tự vệ thương mại bằng các hàng rào kỹ thuật, thuế bán phá giá đối với một số mặt hàng vi phạm luật cạnh tranh.
Tuy vậy, cơ chế, chính sách, tổ chức thực hiện rào cản kỹ thuật cần được rà soát đồng bộ để tạo thành một giải pháp hữu hiệu ứng phó với các quyết định của nước khác gây thiệt hai cho thương mại quốc tế của Việt Nam.
Nếu cuộc chiến tranh thương mại giữa các cường quốc xảy ra sẽ có tác động tiêu cực đến thương mại toàn cầu, trong đó có Việt Nam, đồng thời cũng tạo ra cơ hội mới cho các nước có nền kinh tế mở như nước ta.
Chẳng hạn, khi Mỹ dựng hàng rào thuế quan với hàng hóa của Trung Quốc, thì nước này phải tìm thị trường để xuất khẩu những hàng hóa đó. Việt Nam là cửa ngõ của Trung Quốc đối với ASEAN, nên cần nghiên cứu việc tận dụng lợi thế về địa lý, truyền thống để tranh thủ cơ hội mới này nhằm mở rộng quan hệ thương mại và đầu tư giữa 2 nước.
Việt Nam cũng đối mặt với nhiều thách thức từ trong nước, như biến đổi khí hậu gây ra thảm họa thiên tai ngày càng nghiêm trọng, năng suất lao động còn thấp, năng lực cạnh tranh chưa cao, việc làm và thu nhập trong điều kiện cơ cấu lại ngành và lĩnh vực kinh tế dưới tác động của cuộc cách mạng 4.0.
Gia tăng tốc độ tăng trưởng với việc bảo đảm tính bền vững và tăng trưởng xanh, tranh thủ thời cơ của “dân số vàng” trước khi “dân số già”, bộ máy nhà nước và công chức kém hiệu năng, thủ tục hành chính vẫn còn khá phức tạp và gây phiền hà cho doanh nghiệp và người dân…
Những thách thức trên đã được đề cập tại nhiều văn kiện của Đảng và Nhà nước với hệ thống chính sách và giải pháp để giải quyết từng vấn đề, do vậy đã đạt được những thành quả rõ rệt, nhất là từ sau Đại hội lần thứ XII của Đảng và thành lập Chính phủ nhiệm kỳ mới tháng 4/2016.
Tuy vậy, so với mục tiêu trở thành nước công nghiệp hóa theo hướng hiện đại, cũng như khai thác tiềm lực để vượt qua những thách thức thì đáng ra thành tựu có thể lớn hơn nhiều, trạng thái phát triển của nước ta cao hơn nhiều, đáp ứng tốt hơn nguyện vọng của các tầng lớp dân cư.
Một nhược điểm lớn là Nhà nước có nhiều nghị quyết, chiến lược về từng vấn đề, trong đó xác định nhiều mục tiêu, với hệ thống giải pháp, nhưng không làm rõ nhiệm vụ trọng tâm, thời gian cần hoàn thành, trách nhiệm, từng tổ chức, đơn vị và thiếu đánh giá việc thực hiện để bổ sung hoàn chỉnh các văn bản.
Do đó, tuy rất nhiều chiến lược, nghị quyết đã được ban hành, nhưng không được đánh giá một cách khách quan, quy rõ trách nhiệm của từng tổ chức, đơn vị và người đứng đầu đối với việc không hoàn thành các mục tiêu đã đề ra.
Bởi vậy, nhân dịp chuẩn bị Đại hội lần thứ XIII của Đảng, khi xây dựng chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2030, Chính phủ cần rà soát toàn bộ các chiến lược, nghị quyết để hoàn thiện theo hướng tinh gọn, xác định rõ ràng mục tiêu, đề ra giải pháp thiết thực và thời hạn hoàn thành, quy định nhiệm vụ của từng đơn vị, tổ chức để thích ứng với tình hình phát triển của đất nước trong một thế giới đang diễn biến bất thường.
Nguyên nhân chủ yếu nằm ở nhược điểm cố hữu trong khâu tổ chức thực hiện với bộ máy nhà nước cồng kềnh, kém hiệu năng, đội ngũ công chức, viên chức chưa đủ đạo đức nghề nghiệp và năng lực chuyên môn để thực hiện chức năng của Chính phủ kiến tạo, Chính phủ hành động, Chính phủ điện tử.
Để khắc phục nhược điểm đó, nhân tố quyết định là lựa chọn đúng người đứng đầu từng tổ chức, đề cao trách nhiệm và quyền hạn cá nhân, đánh giá cán bộ công chức bằng thước đo hoàn thành nhiệm vụ được giao, khen thưởng, kỷ luật kịp thời, kể cả việc từ chức hoặc cách chức những người kém năng lực, thiếu tinh thần trách nhiệm, gây ra trạng thái “trên nóng dưới lạnh, nóng lạnh không đều”.
Đó là điều kiện bảo đảm thực hiện có kết quả Nghị quyết 18- NQ/TW về đổi mới, sắp xếp tổ chức, bộ máy, hệ thống chính trị với mục tiêu rõ ràng và giải pháp khá toàn diện trên tinh thần cải cách mạnh mẽ và đột phá để khắc phục trạng thái trì trệ, làm chuyển động nhanh chóng khâu tổ chức thực hiện từ Trung ương đến địa phương và cơ sở.