Tính đến cuối năm 2013, Việt Nam có tổng cộng 359.794 doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa (MSMEs), chiếm 96,4% tổng số các doanh nghiệp trong cả nước. (Ảnh Internet)

Tính đến cuối năm 2013, Việt Nam có tổng cộng 359.794 doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa (MSMEs), chiếm 96,4% tổng số các doanh nghiệp trong cả nước. (Ảnh Internet)

Doanh nghiệp nhỏ và vừa tại châu Á vẫn khát vốn

(ĐTCK) Một báo cáo mới của Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB) cho biết các DN nhỏ và vừa tại Châu Á cần nguồn tài chính để giúp họ tăng trưởng và trở thành những công ty năng động và có sức cạnh tranh quốc tế.

Thực tế cho thấy, nguồn tài chính là vấn đề cốt yếu để có được sự tăng trưởng cao và bền vững ở khu vực châu Á trong bối cảnh thế giới đang phục hồi sau suy thoái kinh tế toàn cầu gần đây.

Ông Noritaka Akamatsu, Cố vấn cao cấp của Vụ Phát triển bền vững và Biến đổi Khí hậu (thuộc ADB), đơn vị soạn thảo báo cáo cho biết: “Châu Á có hàng triệu doanh nghiệp nhỏ và vừa nhưng chỉ một số ít trong số họ có thể phát triển đến một mức độ mà họ có thể tạo ra đổi mới hoặc là một phần của chuỗi giá trị toàn cầu. Để làm được điều đó, họ cần thêm vốn phát triển và thêm cơ hội tiếp cận với các kênh hỗ trợ tài chính khác nhau.”

Báo cáo Theo dõi Tài chính SME Châu Á 2014 xem xét 20 quốc gia đang phát triển tại châu Á và ghi nhận rằng các doanh nghiệp nhỏ và vừa chiếm trung bình 96% số lượng tất cả các công ty có đăng ký và 62% số lượng lao động. Tuy nhiên, các doanh nghiệp này chỉ đóng góp 42% sản lượng kinh tế.

Tính đến cuối năm 2013, Việt Nam có tổng cộng 359.794 doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa (MSMEs), chiếm 96,4% tổng số các doanh nghiệp trong cả nước. Hầu hết các DN đều thuộc sở hữu tư nhân (97.2%) trong khi các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài chiếm 2,7% và số còn lại là thuộc sở hữu nhà nước.

Bán buôn và bán lẻ chiếm tỷ lệ 39,8% tổng số các DN siêu nhỏ, nhỏ và vừa đang hoạt động, tiếp sau đó là ngành dịch vụ chiếm 20,5% và 15,7% là ngành công nghiệp chế tạo. Đã có khoảng 5,1 triệu lao động được các DN siêu nhỏ, nhỏ và vừa tuyển dụng, chiếm 46,8% lực lượng lao động của Việt Nam.

“Hội nhập khu vực và tự do hóa thương mại có nghĩa là các doanh nghiệp cần phải chuyển từ việc chú trọng thị trường trong nước sang việc chú trọng hơn đến các mục tiêu toàn cầu. Điều này vừa đem lại cơ hội cho các doanh nghiệp nhỏ khai phá các thị trường nước ngoài, vừa đặt họ trước sự cạnh tranh ngày càng gia tăng”, Báo cáo này cho biết.

Báo cáo cũng nhấn mạnh về việc các chính phủ trong khu vực cần hỗ trợ các doanh nghiệp nhỏ và vừa trở nên cạnh tranh hơn và có thể tham gia vào các chuỗi giá trị toàn cầu. Trong số các hỗ trợ đó có việc chính phủ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận dễ hơn với các hỗ trợ tài chính mới, chẳng hạn như hỗ trợ tài chính chuỗi cung ứng.

Đặc biệt, khả năng tiếp cận hạn chế với tín dụng ngân hàng là một vấn đề còn tồn tại ở khu vực châu Á và Thái Bình Dương. Tỷ lệ cho vay dành cho các DN nhỏ và vừa đã giảm xuống trong thời gian diễn ra cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu và năm 2014, các DN nhỏ và vừa chỉ nhận được 18,7% trong tổng số các khoản cho vay của ngân hàng.

Lĩnh vực tài chính phi ngân hàng -  ví dụ điển hình là những các công ty tài chính, các hãng cho thuê tài chính đối với máy móc và thiết bị - tại khu vực Châu Á và Thái Bình Dương vẫn còn quá nhỏ để đáp ứng nhu cầu tài trợ vốn của các DN nhỏ và vừa, với tổng giá trị các khoản cho vay dạng này chỉ bằng một phần mười tổng giá trị dư nợ các khoản vay ngân hàng.

“Các chính phủ cần tạo dựng một khung chính sách toàn diện để hỗ trợ các tổ chức tài chính phi ngân hàng mở rộng các lựa chọn tài trợ vốn cho các DN nhỏ và vừa của họ. Các nỗ lực đang được thực hiện để mở cửa các thị trường cổ phiếu cho các DN nhỏ và vừa cũng có thể giúp các DN này có được nguồn tài trợ dài hạn mà họ cần để trưởng thành”, Báo cáo nhấn mạnh.

Tin bài liên quan