Nhận định về tình hình kinh tế Việt Nam trong thời gian qua, ông Eric Sidgwick, Giám đốc Quốc gia của ADB tại Việt Nam cho biết: “Tăng trưởng kinh tế đạt được trên tất cả các lĩnh vực, với động lực là ngành sản xuất chế tạo tiếp tục mở rông, sản xuất nông nghiệp tăng cao, ngành dịch vụ ổn định, tiêu dùng trong nước được duy trì tốt, và đầu tư dồi dào của các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và doanh nghiệp trong nước”.
Dẫu vậy, trong bản cập nhật báo cáo kinh tế thường niên “Triển vọng Phát triển Châu Á (ADO) 2018”, mặc dù ADB giữ nguyên dự báo tăng trưởng năm 2019 của Việt Nam ở mức 6,8% nhưng Cơ quan này dự báo tăng trưởng kinh tế của Việt Nam ở mức 6,9% cho năm 2018, thấp hơn so với mức 7,1% được dự báo trong tháng 4 năm nay.
Nguyên do của việc hạ dự báo theo ông Eric Sidgwick, Giám đốc Quốc gia của ADB tại Việt Nam cho biết đến từ hai phía.
Cụ thể, thách thức bên ngoài mang lại rủi ro cao hơn ví dụ như căng thẳng về thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc nếu vẫn tiếp tục duy trì sẽ có tác động lan tỏa đến hoạt động ngoại thương và dòng vốn FDI vào Việt Nam.
Ở trong nước, ảnh hưởng của thời tiết làm giảm sản lượng nông nghiệp; xuất khẩu, xây dựng và khai khoáng dự kiến giảm nhẹ trong nửa cuối năm.
Nghiên cứu của ADO cho biết, nông nghiệp sẽ giảm mức tăng trưởng và chỉ đạt 2,5% trong năm nay, thấp hơn dự báo trước đó và dưới mục tiêu của chính phủ là 3,0%, do lũ lụt nghiêm trọng trong những tháng gần đây.
Sản lượng khai khoáng đã giảm 1,3% trong nửa đầu năm nay, sẽ tiếp tục bị ảnh hưởng bởi các mỏ và giếng dầu đã khai thác nhiều năm cũng như điều kiện thời tiết không thuận lợi.
Tăng trưởng trong ngành xây dựng cũng sẽ giảm trong các tháng cuối năm do chính phủ tìm cách ngăn chặn bong bóng bất động sản.
ADB công bố báo cáo cập nhật tình hình kinh tế châu Á ngày 26/9
Cũng theo ADO, mặc dù tốc độ tăng trưởng đã được điều chỉnh giảm trong năm nay, áp lực lạm phát có khả năng sẽ tiếp tục duy trì trong thời gian tới. Tiền đồng đã yếu đi kể từ tháng 7 và có thể tiếp tục chịu áp lực khi lãi suất của Mỹ tăng và đồng đô la mạnh lên. Nếu đồng nhân dân tệ tiếp tục mất giá so với đồng đô la thì có thể gây thêm áp lực lên tiền đồng, làm tăng lạm phát.
Căng thẳng về thương mại giữa Mỹ và Trung Quốc nếu vẫn tiếp tục duy trì sẽ có tác động lan tỏa đến hoạt động ngoại thương và dòng vốn FDI vào Việt Nam.
Hơn nữa, giá dầu thế giới tăng sẽ làm tăng áp lực lên lạm phát, cũng như việc tăng giá lương thực. Giá lương thực chiếm tỷ trọng khoảng một phần ba trong giỏ hàng hoá tiêu dùng, đã tăng 2,3% trong 8 tháng đầu năm, đảo ngược xu hướng giảm trong cùng kỳ năm ngoái.
Do đó, lạm phát trung bình năm được dự báo sẽ tăng lên tới 4,0% trong năm 2018 và tiếp tục lên 4,5% vào năm 2019, cả hai đều cao hơn dự báo hồi tháng 4/2018.
“Áp lực lạm phát có thể sẽ tiếp tục duy trì trong ngắn hạn do giá dầu quốc tế tăng và giá lương thực tăng. Do đó, ADB đã điều chỉnh lạm phát của Việt Nam lên 4% trong năm 2018 và 4,5% cho 2019, tăng so với ước tính trong tháng 4 tương ứng là 3,7% và 4%”, ông Eric Sidgwick nói.
Ông Nguyễn Minh Cường, Chuyên gia kinh tế trưởng ADB cho biết: “Thâm hụt thương mại xuất hiện trong tháng Bảy và tháng Tám báo hiệu rằng tăng trưởng trong nhập khẩu hàng hóa có khả năng vượt mức tăng trưởng xuất khẩu. Thặng dư tài khoản vãng lai có khả năng thu hẹp, cả khi xuất khẩu dịch vụ thuần vẫn ổn định.
Do đó, dự báo cho thặng dư tài khoản vãng lai được điều chỉnh giảm xuống tương đương 2,3% GDP trong năm nay và duy trì ở mức 2,0% trong năm tới. Đối với tài khoản vốn, FDI tiếp tục là nguồn tăng chính”.
ODA của ADB vẫn đủ hấp dẫn với Việt Nam
Trả lời Đầu tư Chứng khoán về việc ADB có kế hoạch như thế nào để các nguồn vốn của ADB dành cho Việt Nam vẫn mang tính ưu đãi cao và có tính cạnh tranh với các nguồn vốn khác, ông Eric Sidgwick cho biết, năm 2018 là năm cuối cùng Việt Nam nhận được viện trợ ưu đãi từ Quỹ Phát triển châu Á (ADF-vốn vay có kỳ hạn và lãi suất ưu đãi hơn) nhưng từ năm 2019, khi vay vốn từ ADB, Việt Nam sẽ phải trả lãi suất cao hơn từ nguồn vốn OCR (vốn thông thường). Tuy nhiên, lãi suất từ OCR tương đối thấp nên sự chênh lệch này không mạnh, không rõ rệt tuy nhiên, kỳ hạn của các khoản vay ngắn hơn.
“Kể cả nói như vậy, khi chi phí vay tăng lên cao hơn so với trước nhưng Việt Nam vẫn có những phương án để giảm thiểu chi phí này như lựa chọn các phương án vay trả lãi, phương án vay khác nhau để giảm thiểu tác động, ví dụ lựa chọn đồng tiền vay, kỳ hạn vay và kỳ trả nợ…
Do vậy, khoản vay của ADB được đánh giá vẫn rẻ hơn so với thị trường, so với một số nguồn vốn ODA khác cho Việt Nam”, ông Eric Sidgwick nói.
Cũng theo ông Eric Sidgwick, cần chú ý là Chính phủ Việt Nam có thể gây quỹ từ nguồn trái phiếu trong nước hiện nay vẫn đang khá rẻ bởi vì thanh khoản đối với trái phiếu này vẫn còn thấp.
Tuy nhiên, do nhu cầu từ việc xây dựng cở hạ tầng, quan điểm của ADB và Chính phủ là vẫn còn một loạt dự án phát triển cơ sở hạ tầng của Việt Nam vẫn cần nguồn tài trợ từ ADB. Và ADB hiện nay đã có một chiến lược mới đến năm 2030 thiết kế nhằm giúp đỡ, tài trợ những đất nước như Việt Nam.
“Theo đó, đi kèm với nguồn vốn ADB, Việt Nam còn được tiếp cận thêm những dịch vụ khác từ ADB chứ không chỉ có mỗi nguồn vốn tài chính này.
Đó là những giá trị gia tăng cho Việt Nam từ ADB như: chuyển giao kiến thức, chuyển giao công nghệ, tiếp cận công nghệ cao để có thể cải thiện hiệu quả trong hoạt động đầu tư, mang lại tác động lan tỏa hơn cho các hoạt động khác trong nền kinh tế.
Bên cạnh đó, vốn ADB còn là vốn “mồi”, vốn xúc tác để thu hút vốn đầu tư của tư nhân vào phát triển kinh tế và cơ sở hạ tầng của Việt Nam… ODA của ADB vẫn đủ hấp dẫn với Việt Nam”, ông Eric Sidgwick nhấn mạnh.
Chia sẻ thêm thông tin liên quan đến vấn đề này với Đầu tư chứng khoán, ông Nguyễn Minh Cường cho biết: "Nguồn vốn ưu đãi của ADB dành cho Việt Nam trong năm 2018 còn 600 triệu USD chưa được duyệt, Việt Nam nên tận dụng nguồn này bởi nếu không dùng thì sẽ mất. Bên cạnh đó, vẫn còn 4 tỷ USD chưa giải ngân của những năm trươc, nếu để kéo dài lâu, giá sẽ tăng lên".