Việt Nam có động lực tăng trưởng xuất phát từ tầng lớp trung lưu và thế hệ trẻ ngày càng gia tăng, tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do và ngành công nghiệp sản xuất đang bùng nổ.
Nhiều tập đoàn đa quốc gia từ Alphabet Inc (công ty mẹ của Google) cho tới Crate & Barrell Holdings Inc đang "xếp hàng" đầu tư vào Việt Nam, hòa chung với xu hướng dịch chuyển hoạt động sản xuất - kinh doanh ra khỏi Trung Quốc khi thương chiến xảy ra và môi trường hoạt động tại nền kinh tế lớn thứ hai thế giới không còn tích cực như cách đây hai thập kỷ.
Tuy nhiên, Việt Nam đang đối mặt với tình trạng kỳ vọng vượt xa thực tế.
Ngày càng nhiều doanh nghiệp phàn nàn về hệ thống cơ sở hạ tầng, nhất là đường sá và cầu cảng, chi phí đất đai và lao động gia tăng, trong khi các quy định chưa được nới lỏng đủ nhanh.
Chẳng hạn, Tapestry Inc, tập đoàn sở hữu thương hiệu Coach và Kate Spade, phải lên tiếng về việc cơ sở hạ tầng chưa được cải thiện, khiến một số container chở hàng của hãng không thể cập bến.
Trong khi đó, Eclat Textile Co, nhà cung cấp nguyên vật liệu cho Nike Inc cho biết, Công ty cần phân tán hoạt động ra bên ngoài Việt Nam với mục đích tìm địa điểm có chi phí lao động rẻ hơn.
“Nếu không thúc đẩy quá trình cải thiện hệ thống cơ sở hạ tầng, Việt Nam sẽ mất đi sức hút có được nhờ cuộc chiến thương mại Mỹ - Trung. Chi phí sẽ cao hơn lợi ích thu về, khiến các nhà sản xuất tìm tới các quốc gia khác như Srilanka hoặc Campuchia”, Gerry Mattios, Phó Chủ tịch Bain & Co tại Singapore cho biết.
Hiện tại, dòng vốn đầu tư vẫn tích cực chảy vào Việt Nam, với tổng nguồn vốn đầu tư trực tiếp (FDI) tăng 6,3% trong 8 tháng đầu năm nay so với cùng kỳ năm ngoái, đạt 12 tỷ USD.
Bên cạnh đó, số lượng các dự án đăng ký mới tăng 25%, lên 2.406 dự án. Tuy nhiên, có những cánh cửa mà Việt Nam cần tìm chìa khóa mở ra để đủ khả năng đón nhận các cơ hội.
Tắc nghẽn các cảng
Cơ sở hạ tầng là rào cản lớn nhất đối với Việt Nam, nhất là các cảng biển. Trung Quốc sở hữu 6 trong số 10 cảng có lưu lượng container lớn nhất thế giới, với cảng Thượng Hải đứng thứ nhất.
Trong khi đó, Việt Nam có 2 cảng lớn nhất là cảng TP.HCM và Cái Mép, lần lượt xếp thứ 25 và 50, theo số liệu từ Bloomberg Intelligence.
Thị phần vận chuyển hàng hóa bằng container của Việt Nam trên thị trường toàn cầu chỉ đạt 2,5% năm 2017, so với mức 40% của Trung Quốc.
Năng lực vận chuyển container của Việt Nam cần tăng trưởng gấp đôi so với mức tăng bình quân 10 - 12%/năm trong gần một thập kỷ qua, trong khi năng lực của các hãng logistic và đại lý giao nhận cần tăng gấp ba mới có thể bắt nhịp với nhu cầu gia tăng, theo nghiên cứu của Bloomberg Intelligence.
Việc tắc nghẽn tại các cảng đồng nghĩa với chi phí kho bãi gia tăng, gây hạn chế cho các loại hàng hóa nhạy cảm với thời gian. Ðể tháo gỡ vướng mắc này, cần có sự đầu tư lớn cho hệ thống kho chứa, cảng biển, trạm trung chuyển và các cảng container nội địa…
Riêng với hệ thống cảng, Chính phủ Việt Nam ước tính cần khoảng 80.000 - 100.000 tỷ đồng (3,44 - 4,31 tỷ USD) đầu tư.
“Tổng thống Mỹ Donald Trump cho rằng, Việt Nam là một ứng cử viên trong xu hướng dịch chuyển hoạt động sản xuất ra khỏi Trung Quốc. Tuy nhiên, Việt Nam thiếu cơ sở hạ tầng đường biển, không sở hữu các cảng container lớn và thiếu hệ thống vận chuyển đủ sức đáp ứng nhu cầu đang tăng gia tăng nhanh chóng. Ðiều này khó có thể được giải quyết chỉ trong vài năm”, chiến lược gia tại Bloomberg Intelligence nhận định.
Trong khi đó, nhu cầu vận chuyển đang tăng trưởng mỗi ngày. Hơn 530 triệu tấn hàng hóa được vận chuyển qua các cảng biển tại Việt Nam trong năm ngoái, tăng 20% so với năm trước đó, theo số liệu từ cơ quan Hải quan Việt Nam.
Số lượng hàng hóa xuất khẩu được xếp dỡ tăng 15% lên 142,8 triệu tấn và 18,2 triệu TEU containers được vận chuyển trong năm 2018, tăng 26% so với năm 2017.
“Với tình trạng hiện tại, chắc chắn, Việt Nam không thể đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp nước ngoài đang có xu hướng dịch chuyển tới đây”, Tsai Wen Jui, Chủ tịch DDK Group - nhà sản xuất xe đạp Ðài Loan nói và cho biết thêm, chỉ cần 5% các công ty Ðài Loan đang hoạt động tại Trung Quốc chuyển tới Việt Nam, cơ sở hạ tầng tại đây đã không đủ sức đáp ứng.
DDK Group sở hữu một doanh nghiệp liên doanh với Becamex IDC quản lý một khu công nghiệp tại Bình Dương (Việt Nam) dành riêng cho các công ty Ðài Loan.
Giá đất leo thang
Giá bất động sản, nhất là bất động sản khu công nghệp leo thang là một trong những lý do khiến các doanh nghiệp tìm tới Việt Nam còn ngần ngại.
Giá đất tại Khu công nghiệp Bàu Bảng đã tăng gấp đôi lên 80 USD/m2 so với cách đây 3 năm. Tại một số khu công nghiệp khác ở Bình Dương, giá đất cũng leo lên mức 150 USD/m2 so với mức 65 USD/m2 năm 2016, Tsai Wen Jui cho biết.
Ðáng chú ý, Bình Dương không phải là địa phương duy nhất chứng kiến giá đất nhanh chóng gia tăng.
Giá thuê bất động sản khu công nghiệp đã tăng trưởng ở mức hai con số trong nửa đầu năm 2019 so với cùng kỳ năm ngoái tại một số tỉnh, bao gồm Bình Dương (54,6%), Tây Ninh (31,1%), Hải Dương (29,4%)… theo số liệu tổng hợp từ Savills Plc.
Trong khi đó, giá bất động sản dân cư cũng không ngừng leo dốc tại Hà Nội và TP.HCM. Chẳng hạn, giá nhà chung cư (condominiums) tăng 20% trong quý II/2019 so với cùng kỳ năm ngoái.
Thói quan liêu
Việt Nam đã có bước tiến dài trong danh sách đánh giá môi trường kinh doanh của Ngân hàng Thế giới (WB) và chỉ số cạnh tranh của Diễn đàn Kinh tế Thế giới.
Bên cạnh đó, danh tiếng về môi trường thân thiện cũng được tạo dựng nhờ các hoạt động cải tổ môi trường đầu tư, cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước và chính sách tự do hóa thương mại.
Tuy nhiên, hệ thống quản lý tại Việt Nam vẫn cần nhiều cải thiện và đây là câu chuyện nhiều khó khăn. Năm 2018, Việt Nam đạt 33 điểm trong thang điểm từ 0 - 100 (0 là tình trạng tham nhũng, quan liêu ở mức rất cao, 100 là rất minh bạch) thuộc chỉ số đo lường mức độ tham nhũng của Tổ chức Minh bạch quốc tế.
Số điểm này ít có thay đổi so với năm 2015, phần nào phản ánh sự chậm thay đổi trong cuộc chiến của Chính phủ chống lại đường lối làm việc quan liêu của bộ máy chính quyền các địa phương.
Lực lượng lao động thiếu kỹ năng
Các yếu tố nhân khẩu học đang là một trong những điểm thu hút của Việt Nam trong mắt nhà đầu tư ngoài. Tỷ trọng dân số thuộc độ tuổi lao động (15 - 64 tuổi) tại Việt Nam sẽ giữ vững ở mức lớn hơn so với mức trung bình tại châu Á nói riêng và trên toàn cầu nói chung cho tới năm 2025, theo số liệu từ Uỷ ban Dân số quốc gia.
Trong khi đó, Chính phủ Việt Nam đang thể hiện quyết tâm đầu tư cho hệ thống giáo dục nhằm nâng cao hơn nữa kỹ năng của người lao động.
Vậy nhưng, theo Huang Yung Cheng, Chủ tịch Hội đồng của Phòng Thương mại Ðài Loan tại Bắc Ninh, Việt Nam khó có thể cung cấp nguồn lao động chất lượng cao cho các doanh nghiệp công nghệ dịch chuyển tới, ngay cả khi đã có những nỗ lực.
Các doanh nghiệp Ðài Loan cho biết, họ cần thêm khoảng 20 - 20% lực lượng lao động để đáp ứng mục tiêu sản xuất, theo biên bản cuộc gặp gỡ của nhóm doanh nghiệp này và chính quyền tỉnh Bình Dương.
Nhưng việc thu hút lao động có kỹ năng đồng nghĩa với việc phải gia tăng chi phí, với mức lương dành cho các nhân tài đã tăng khoảng 60% trong năm qua tại Bình Dương.
Nhìn chung, mức lương trung bình tại Việt Nam (180 USD/tháng năm 2018) vẫn thấp hơn nhiều so với các quốc gia khác trong khu vực như Thái Lan (274 USD) và có sức cạnh tranh tốt hơn so với Campuchia (170 USD), theo Suan Teck Kin và Manop Udom kerdmongkol, chiến lược gia tại United Overseas Bank.
Chưa kể, mức lương trung bình tại Campuchia đã tăng lên khoảng 182 USD/tháng vào đầu năm 2019 và tiếp tục xu hướng trong thời gian qua.
Theo Sean King, Phó chủ tịch cấp cao Park Strategies LLC, năng suất lao động tại Việt Nam ở mức thấp hơn 25 - 30% so với Trung Quốc, do đó lợi thế về lao động khó có thể so sánh với Trung Quốc.
Ðể không bị tuột cơ hội từ làn sóng dịch chuyển đầu tư khỏi Trung Quốc, Việt Nam cần cải thiện các yếu tố bất cập nêu trên.