Techcombank chào bán cổ phần lần đầu ra công chúng (IPO) rất thành công, nhưng sau khi niêm yết, giá cổ phiếu của ngân hàng này lại giảm so với giá tham chiếu. Ông có nhìn nhận gì về diễn biến này?
Thương vụ IPO của Techcombank đã gặt hái được thành công to lớn. Tổng nhu cầu đặt mua của các nhà đầu tư đạt 3,5 tỷ USD, cao hơn 15,8 lần quy mô chào bán 225 triệu USD cho các nhà đầu tư chủ chốt, do đó có nhiều nhà đầu tư đã không mua được cổ phiếu nào. Phần lớn nhu cầu đến từ các nhà đầu tư châu Á, nhưng chúng tôi cũng ghi nhận sự tham gia không nhỏ từ các nhà đầu tư Mỹ và EMEA (khu vực châu Âu, Trung Đông và châu Phi).
Dù vậy, do sự thành công của đợt chào bán này nên đã làm kín “room” dành cho nhà đầu tư nước ngoài tại TCB vào thời điểm niêm yết và các nhà đầu tư trong nước thường ít quan tâm tham gia vào các cổ phiếu vừa niêm yết vì chưa đủ điều kiện cho vay ký quỹ, khiến giá cổ phiếu giảm sàn trong phiên giao dịch đầu tiên.
Chúng tôi duy trì quan điểm tích cực về giá trị trong dài hạn của Techcombank. Trong báo cáo lần đầu dành cho cổ phiếu TCB, VCSC khuyến nghị giá mục tiêu 153.000 đồng/cổ phiếu trong 12 tháng tới. Mức giá này tương ứng với tỷ lệ P/B (giá cổ phiếu trên giá trị sổ sách) xấp xỉ 3,5 lần - là hợp lý so với các ngân hàng khác tại Việt Nam.
Ngoài ra, chúng tôi cũng ghi nhận yếu tố hỗ trợ ngắn hạn cho các nhà đầu tư trong nước. Ngày 14/6/2018, Techcombank sẽ tổ chức họp Đại hội đồng cổ đông bất thường nhằm trình cổ đông thông qua việc chia cổ tức bằng cổ phiếu, tỷ lệ 200% (1 cổ phiếu hiện hữu được nhận 2 cổ phiếu mới). Điều này sẽ làm tăng vốn điều lệ của Ngân hàng từ 11.650 tỷ đồng lên 35.000 tỷ đồng và giúp cải thiện thanh khoản giao dịch cho cổ phiếu TCB.
Ông Barry Weisblatt, Giám đốc Phân tích đầu tư, Công ty Chứng khoán Bản Việt.
Đánh giá của ông về triển vọng ngành ngân hàng Việt Nam nói chung như thế nào?
Chúng tôi có quan điểm tích cực về triển vọng của ngành ngân hàng Việt Nam. Tăng trưởng tín dụng năm 2017 khá ổn định, đạt 18% và điểm đáng chú ý là mức tăng trưởng này không tập trung vào 2 tuần cuối cùng của năm để đạt mục tiêu của Ngân hàng Nhà nước, mà duy trì tăng trưởng ổn định trong cả năm.
Ngoài ra, chúng tôi đang nhận thấy sự chuyển hướng tập trung sang cho vay bán lẻ, mang lại một số tác động tích cực. Đầu tiên, lợi suất cao hơn từ các tài sản bán lẻ giúp giữ tỷ lệ lãi cận biên (NIM) của các ngân hàng mà chúng tôi theo dõi duy trì ổn định, đạt 2,9%, dù chi phí huy động gia tăng. Thứ hai, chúng tôi nhận thấy thu nhập ngoài lãi (NOII) có mức đóng góp nhiều hơn trong lợi nhuận các ngân hàng. NOII tăng từ 12% tổng thu nhập từ hoạt động kinh doanh (TOI) lên 18% trong 2 năm qua trong danh mục các ngân hàng chúng tôi theo dõi, nhờ vào mức tăng 3 chữ số của khoản mục này tại các ngân hàng. Phần lớn diễn biến này đến từ việc triển khai các sản phẩm mới, như bancasurrance (ngân hàng kết hợp bảo hiểm). Cung cấp dịch vụ ngân hàng giao dịch cho các khách hàng bán buôn (doanh nghiệp lớn) và SME (doanh nghiệp vừa và nhỏ) cũng là yếu tố dẫn dắt tăng trưởng.
Tỷ lệ vốn hóa hiện vẫn khá thấp trong một số trường hợp và việc áp dụng Basel II vào năm 2020 sẽ là thách thức cho không ít ngân hàng, nhưng quá trình xử lý nợ xấu đang có tiến triển tốt, đặc biệt là tại các ngân hàng quốc doanh (có tỷ lệ sở hữu chi phối của Nhà nước). Chúng tôi nhận thấy nhiều ngân hàng đang gần hoàn thành việc xử lý các khoản nợ đã bán cho Công ty Quản lý tài sản của các tổ chức tín dụng Việt Nam (VAMC), tức ngân hàng trả lại trái phiếu đặc biệt cho VAMC và nhận lại khoản nợ đã bán để tự xử lý.
Triển vọng của Techcombank thì sao, theo ông?
Techcombank ghi nhận một số chỉ số sinh lời cao nhất trong danh mục các công ty chúng tôi theo dõi. Cụ thể, tỷ lệ lợi nhuận trên tài sản (ROA) là 2,6% trong 12 tháng qua, so với mức trung bình 0,9% của các ngân hàng trong nước và tỷ lệ lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) là 27,7% so với mức trung bình 14,9% của các ngân hàng trong nước. Chúng tôi dự báo, mức tăng trưởng lợi nhuận 50% cho Techcombank năm 2018, phần lớn do tăng trưởng cho vay 20% và tăng trưởng cho vay mua nhà 35% (vốn có mức sinh lời cao) từ mảng PFS (bán lẻ) của Ngân hàng.
Ngoài ra, thu nhập phí của Techcombank đã tăng với tốc độ tăng trưởng kép (CAGR) 69,5% trong giai đoạn 2015 - 2017, mức tăng ấn tượng trong bối cảnh tỷ trọng cao của thu nhập phí trong TOI của Ngân hàng. Techcombank cũng kiểm soát tốt chi phí. Tỷ lệ chi phí/thu nhập (CIR) 29% tính đến hiện tại là mức thấp nhất trong số các ngân hàng chúng tôi theo dõi (dù con số này bao gồm cả khoản mục bất thường).
Trong khi đó, Ngân hàng duy trì bảng cân đối kế toán lành mạnh. Tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR) 12,7% là cao hơn nhiều so với mức quy định tối thiểu và giữ tỷ lệ nợ xấu ở dưới 2% với chính sách cấp tín dụng thận trọng.
Theo ông, đâu là các thế mạnh cạnh tranh của Techcombank?
Chúng tôi cho rằng, thế mạnh lớn nhất của Techcombank là mảng cho vay mua nhà. Các khoản vay mua nhà chiếm 69% danh mục cho vay bán lẻ của Techcombank so với mức trung bình 35% của nhóm ngân hàng thương mại cổ phần tư nhân. Techcombank đã tăng thêm 8.000 tỷ đồng (350 triệu USD) dư nợ cho vay mua nhà trong năm 2017 và chiếm 16% thị phần.
Tecombank dự kiến chia cổ tức bằng cổ phiếu, tỷ lệ 200%, qua đó tăng vốn điều lệ từ 11.650 tỷ đồng lên 35.000 tỷ đồng
Dự báo, mảng kinh doanh cho vay mua nhà của Techcombank sẽ tiếp tục tăng trưởng trong năm 2018 khi đối tác “hệ sinh thái” chính là Vingroup sẽ mở rộng sang phân khúc căn hộ cao cấp phổ thông với các dự án VinCity.
Cho vay mua nhà là một bước đi thông minh để tăng trưởng mảng cho vay tại Việt Nam khi được hưởng phương thức xỷ lý tỷ trọng rủi ro thuận lợi hơn so với các khoản vay trực tiếp cho chủ đầu tư bất động sản và do đó cần lượng vốn thấp hơn.
Dĩ nhiên, Việt Nam đang trải qua giai đoạn tăng trưởng tốt của thị trường bất động sản trong hơn 5 năm qua và chúng tôi tin rằng, diễn biến này sẽ vẫn tiếp tục, đặc biệt trong phân khúc khách hàng cao cấp phổ thông ít nhất là một vài năm tới. Chúng tôi ước tính, trong năm 2016, tổng cho vay bán lẻ chỉ chiếm 4,7% GDP của Việt Nam, so với con số 16% của Thái Lan, do đó dư địa tăng trưởng của mảng này vẫn còn rất lớn.
Một lĩnh vực chủ chốt khác của Techcombank là mảng kinh doanh bancasurrance (phân phối bảo hiểm qua ngân hàng). Trong năm 2017, Techcombank đã ký hợp tác 15 năm với Manulife. Hợp đồng này là tương tự các ngân hàng khác như Sacombank và Dai-ichi Life, hay VPBank và AIA.
Thị trường bảo hiểm nhân thọ Việt Nam có tỷ lệ thâm nhập còn khá thấp. Theo Frost & Sullivan, trong năm 2016, phí bảo hiểm nhân thọ chỉ chiếm 1% GDP của Việt Nam, so với mức lần lượt 3,2% và 3,7% tại Malaysia và Thái Lan.
Ngoài ra, Frost & Sullivan cũng báo cáo, kênh bancasurrance hiện chỉ chiếm 2% doanh thu bảo hiểm nhân thọ tại Việt Nam so với mức 35% hoặc cao hơn ở các quốc gia khác. Với diễn biến này, chúng tôi kỳ vọng, thu nhập phí thuần của Techcombank từ bancasurrance sẽ tăng với tỷ lệ CAGR là 70% trong giai đoạn 2017 - 2020 (kể khả khi không tính phí trả trước liên quan đến thỏa thuận bancassurance độc quyền với Manulife) và gia tăng tỷ lệ đóng góp đáng kể cho tổng thu nhập phí.
Ngoài ra, Techcombank có một số mảng kinh doanh đáng chú ý khác. Bộ phận ngân hàng giao dịch của Techcombank đóng góp 33% thu nhập phí thuần (không tính khoản mục bất thường) với sự tập trung vào tăng trưởng mảng SME.
Đội ngũ ngân hàng đầu tư của Techcombank là những người dẫn đầu trong thị trường trái phiếu doanh nghiệp của Việt Nam. Thu nhập phí từ thẻ tín dụng đã tăng 22% năm 2017 khi tỷ lệ thẻ hoạt động tăng từ 62% lên 70%. Chúng tôi cho rằng, tỷ lệ này có thể đạt 85% vào năm 2020, trong khi tổng số lượng thẻ phát hành sẽ tăng với tỷ lệ CAGR là 12% trong giai đoạn 2017 - 2020.
Liệu có những rủi ro nào mà Techcombank phải đối mặt, theo ông?
Cho vay mua nhà là một phần quan trọng trong hoạt động kinh doanh của Techcombank và thị trường bất động sản thường mang tính chu kỳ. Một giai đoạn đi xuống của thị trường bất động sản có thể ảnh hưởng đến nhu cầu vay mua nhà và làm giảm giá trị tài sản đảm bảo đối với các khoản vay hiện hữu. Nhưng chúng tôi cho rằng, rủi ro này có thể được kiểm soát. Đầu tiên, chúng tôi ghi nhận lượng giao dịch cao, đặc biệt là trong phân khúc cao cấp phổ thông trong thị trường bất động sản.
Các chuyên viên phân tích ngành bất động sản của chúng tôi nhận định, xu hướng này sẽ tiếp tục diễn ra. Việt Nam có thị trường bất động sản khá sôi động trong vòng 5 năm qua, nhưng chúng tôi chưa ghi nhận những mức tăng giá bất động sản quá cao ở phần lớn các khu vực, do dó chúng tôi cho rằng, giá trị bất động sản chưa bước vào vùng rủi ro.
Trong khi đó, đối tác hệ sinh thái lớn nhất lớn nhất của Techcombank là Vingroup đang dần chuyển hướng từ nhóm khách hàng cao cấp sang nhóm khách hàng cao cấp phổ thông. Điều này sẽ tạo ra một nhóm khách hàng mới cho Techcombank. Ngân hàng cần điều chỉnh chính sách cấp tín dụng nhằm phản ánh sự thay đổi hành vi của nhóm khách hàng mới. Dù vậy, chúng tôi cho rằng, khoản đầu tư xây dựng cơ bản 324 triệu USD vào công nghệ thông tin đến năm 2021 là một chỉ báo tốt cho các nỗ lực đầu tư vào quản lý rủi ro của Techcombank.
Và thách thức mà Techcombank cần giải quyết là gì?
Nhiều ngân hàng trong nước đang đối mặt với các trở ngại đáng kể về tỷ lệ NIM hiện tại do chi phí huy động giá tăng. Techcombank ghi nhận cơ cấu chi phí vốn thuận lợi do gia tăng tỷ lệ tiền gửi không kỳ hạn (CASA) từ 20,6% lên 24,1% trong 3 năm qua. Nhằm đạt được dự báo của chúng tôi, Ngân hàng cần tiếp tục gia tăng tỷ lệ CASA lên 35% vào năm 2020. Chúng tôi cho rằng, mục tiêu này có thể đạt được khi đẩy mạnh phân khúc khách hàng phổ thông mục tiêu thông qua kênh bán hàng số cho mảng bán lẻ và nghiệp vụ ngoại hối, kiều hối dành cho mảng dịch vụ ngân hàng.