Trái phiếu và sinh kế

Trái phiếu và sinh kế

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK)  Trái phiếu, kênh huy động vốn quan trọng cho các hoạt động phát triển cơ sở hạ tầng, hỗ trợ doanh nghiệp, an sinh xã hội... góp phần tạo sự ổn định tài chính vĩ mô.

Trái phiếu giảm gánh nặng tài chính

Ông Alexander Raabe, chuyên gia kinh tế, Vụ Nghiên cứu kinh tế và Tác động phát triển của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB) nhận định, bằng cách kết hợp thời điểm phát hành trái phiếu chiến lược với bảo hiểm thiên tai mở rộng, các quốc gia có thể giảm bớt gánh nặng tài chính và đẩy nhanh quá trình tái thiết cộng đồng.

Quả vậy, khắp châu Á - Thái Bình Dương, lũ lụt, bão, nắng nóng và hạn hán đang xảy ra với tần suất không thể tưởng tượng được so với một thế hệ trước. Việc xây dựng lại đường sá, bệnh viện và trường học sau thiên tai tốn hàng tỷ USD mỗi năm. Chính phủ thường huy động số tiền đó bằng cách phát hành trái phiếu chính phủ.

Đối với một quốc gia vốn đã cân bằng ngân sách eo hẹp, mỗi điểm phần trăm tăng thêm được trả cho người sở hữu trái phiếu đồng nghĩa với việc sẽ có ít tiền hơn cho nơi trú ẩn khẩn cấp, an sinh xã hội và các khoản trợ cấp nhỏ giúp các chủ cửa hàng mở cửa trở lại. Trên thực tế, sự gia tăng đột biến trong chi phí vay của Chính phủ có thể làm chậm lại các khoản đầu tư khiến cộng đồng phải vật lộn để tồn tại.

Một nghiên cứu của ADB với tên gọi “Giám sát trái phiếu châu Á” (Asian Bond Monitor) đã theo dõi các đợt phát hành trái phiếu trên toàn thế giới trong hai thập kỷ cho biết, thiệt hại do thiên tai so với thu nhập quốc dân càng lớn thì lãi suất mà chính phủ phải chấp nhận càng cao.

“Một khoản chi phí thiệt hại chỉ bằng một phần trăm GDP có thể làm tăng thêm khoảng một phần ba điểm phần trăm vào chi phí vay”, chuyên gia ADB cho biết.

Theo ông Matteo Ficarra, chuyên gia kinh tế của ADB, các nước đang phát triển và các đối tác của họ có thể sử dụng các chiến lược sau trong việc phục hồi sau thiên tai để giảm thiểu chi phí phát hành trái phiếu:

Thứ nhất, sử dụng các biện pháp cứu trợ nhanh chóng, ưu đãi. Các tổ chức cho vay đa phương và các cơ sở khu vực có thể can thiệp bằng các khoản vay hoặc tài trợ giải ngân nhanh, lãi suất thấp ngay sau thảm họa. Khoản tài trợ bắc cầu này đáp ứng các nhu cầu cấp thiết, đồng thời cho phép các nhà quản lý nợ chờ đợi thị trường bình lặng hơn trước khi phát hành khối lượng lớn trái phiếu.

Thứ hai, lập kế hoạch phát hành trái phiếu với tâm lý sẵn sàng ứng phó với thảm họa. Cũng như nông dân canh chừng trời đất, kho bạc nên theo dõi mùa thiên tai. Việc giữ lại một phần nhu cầu vay vốn hàng năm được tài trợ trước, xây dựng các khoản dự trữ khiêm tốn và sắp xếp các hạn mức tín dụng dự phòng sẽ giảm áp lực phải khai thác thị trường vào thời điểm tồi tệ nhất.

Thứ ba, mở rộng bảo hiểm giá rẻ. Nhiều quốc gia châu Á - Thái Bình Dương vẫn chưa được bảo hiểm đầy đủ. Việc mở rộng các quỹ dự phòng rủi ro khu vực, khuyến khích phát hành trái phiếu thảm họa và cung cấp trợ cấp phí bảo hiểm có thể giảm phí bảo hiểm thảm họa và bảo vệ bảng cân đối kế toán công.

Thứ tư, tập trung vào truyền thông công cộng. Đánh giá thiệt hại minh bạch, kế hoạch tái thiết rõ ràng và cập nhật ngân sách đáng tin cậy sẽ trấn an các nhà đầu tư và người dân. Niềm tin sẽ làm giảm chi phí vay và thu hút vốn tư nhân cho tái thiết.

“Cuộc tranh luận về chênh lệch lãi suất có bảo lãnh có thể nghe xa vời đối với những gia đình mất nhà cửa và sinh kế. Tuy nhiên, mỗi điểm cơ bản được cắt giảm khỏi chi phí vay đều được nhân lên thành các lớp học được xây dựng lại, vắc-xin được mua và các khoản vay nhỏ được phát hành”, chuyên gia ADB nhận định.

Bằng cách tính toán thời điểm trả nợ một cách khôn ngoan và bảo vệ ngân sách bằng bảo hiểm, Chính phủ có thể biến các lựa chọn tài chính thành cứu trợ thiết thực cho những người dễ bị tổn thương nhất. Khi bão lũ ập đến, người dân sẽ chịu thiệt hại gấp đôi nếu Chính phủ phải chi trả quá nhiều cho các khoản nợ sau thiên tai.

Ông Alexander Raabe chia sẻ: “Việc tính toán thời điểm trả nợ hợp lý và bảo hiểm sẽ giúp giảm chi phí tài chính, giúp cộng đồng có thêm nguồn lực để tái thiết mạnh mẽ hơn trước”.

Trái phiếu giúp giảm rủi ro thanh khoản

Số liệu của Hiệp hội Thị trường trái phiếu Việt Nam cho biết, tính đến ngày công bố thông tin 25/7/2025, lượng trái phiếu doanh nghiệp phát hành trong tháng 7/2025 là 20.134 tỷ đồng. Lũy kế từ đầu năm đến ngày công bố thông tin 25/7, tổng giá trị phát hành trái phiếu doanh nghiệp được ghi nhận là xấp xỉ 287.000 tỷ đồng (90,3% là trái phiếu phát hành riêng lẻ). Có tới 75% trái phiếu phát hành đến từ nhóm ngân hàng.

Trong 7 tháng đầu năm, trái phiếu ngân hàng vốn luôn chiếm ưu thế về giá trị phát hành. Cụ thể, riêng trong tháng 7, Agribank phát hành 10.000 tỷ đồng, SHB là 4.149 tỷ đồng, BIDV là 1.200 tỷ đồng, MB 1.000 tỷ đồng. Đáng chú ý, SHB và Agribank đã phát hành trái phiếu thứ cấp ra công chúng với kỳ hạn lần lượt là 7 và 10 năm, lãi suất thả nổi gắn với mức lãi suất tiền gửi bình quân 12 tháng của 4 ngân hàng quốc doanh, với mức chênh lần lượt là 300 và 180 điểm cơ bản.

Chia sẻ với Đầu tư Chứng khoán, ông Phan Duy Hưng, Giám đốc, Chuyên gia Phân tích Cao cấp, Khối Xếp hạng tín nhiệm và Nghiên cứu VIS Rating nhận định, thị trường vốn của Việt Nam vẫn chủ yếu dựa vào hệ thống ngân hàng. Để hiện thực hóa mục tiêu tăng trưởng GDP đầy tham vọng ở mức 8% trở lên trong năm nay, Ngân hàng Nhà nước đã nâng hạn mức tăng trưởng tín dụng năm 2025 lên 16%, cao hơn mức 15% của năm 2024. Tính đến nửa đầu năm 2025, tăng trưởng tín dụng đã đạt 10% so với cuối năm 2024 - vượt mức cùng kỳ năm trước và phản ánh nhu cầu tín dụng mạnh mẽ trên nhiều ngành nghề bất chấp các áp lực bên ngoài như thuế quan và căng thẳng địa chính trị.

“Do đó, ngân hàng sẽ cần nguồn vốn dài hạn bổ sung để hỗ trợ cho nguồn vốn tiền gửi và duy trì các tỷ lệ an toàn theo quy định”, ông Hưng nói.

Cũng theo ông Hưng, trong 6 tháng đầu năm 2025 các ngân hàng đã phát hành 176.000 tỷ đồng trái phiếu theo cả hình thức phát hành ra công chúng và phát hành riêng lẻ, tăng 85% so với cùng kỳ năm trước. Tỷ trọng trái phiếu tăng vốn cấp 2 trên tổng trái phiếu ngân hàng đã phát hành tương đối ổn định, chiếm 31% trong 6 tháng đầu năm 2025. Những ngân hàng tăng trưởng mạnh cho vay và có tỷ lệ vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn (SMLR) tiệm cận mức trần 30% sẽ đẩy mạnh huy động nguồn vốn trái phiếu dài hạn. Ngoài ra, một số ngân hàng có tỷ lệ dư nợ cho vay trên tổng vốn huy động tiệm cận mức trần 85% của tỷ lệ cho vay so với huy động theo quy định sẽ cần phát hành trái phiếu.

Ông Hưng thông tin: “Nhóm ngân hàng quốc doanh và ngân hàng tư nhân quy mô nhỏ sử dụng nhiều trái phiếu tăng vốn cấp 2 hơn trong cơ cấu vốn tự có, để bổ sung mức vốn cấp 1 thấp và đáp ứng quy định về tỷ lệ an toàn vốn”.

Một lãnh đạo cao cấp của Fiin Ratings nhận định, tỷ lệ cho vay so với huy động toàn ngành ở mức rất cao (108,5%), cho thấy các ngân hàng đã tận dụng tối đa nguồn vốn huy động để mở rộng cho vay, giúp biên lãi ròng (NIM) tạm ngừng giảm trong quý II/2025. Như vậy, dư địa cải thiện NIM không còn nhiều nếu huy động không theo kịp tăng trưởng tín dụng và có áp lực tăng lãi suất huy động vào cuối năm khi nhu cầu về vốn thường ở mức cao.

Tin bài liên quan