Tình trạng vàng hóa, đô-la hóa nền kinh tế từng bước được kiểm soát

Tình trạng vàng hóa, đô-la hóa nền kinh tế từng bước được kiểm soát

Thị trường tài chính năm 2018 và định hướng chính sách

(ĐTCK) Trong quý I/2018, với định hướng điều hành chính sách tiền tệ, tỷ giá và công tác quản lý ngoại hối linh hoạt, chủ động, dẫn dắt thị trường của Ngân hàng Nhà nước (NHNN), các luồng vốn ngoại tệ vào Việt Nam tiếp tục diễn biến tích cực, góp phần ổn định thị trường ngoại hối và gia tăng quy mô dự trữ ngoại hối nhà nước. 

Trong những tháng tới, bên cạnh những yếu tố tích cực từ thị trường tài chính trong nước và quốc tế, kinh tế và thị trường tài chính toàn cầu còn chứa đựng một số biến động có thể tác động bất lợi đến tình hình kinh tế - tài chính trong nước. Vì vậy, việc điều hành chính sách phải được thực hiện linh hoạt trên cơ sở theo dõi sát diễn biến thị trường, đảm bảo sự ổn định nền tảng vĩ mô.

Những thành quả đạt được trong quý đầu năm 2018

Kinh tế thế giới trong 3 tháng đầu năm 2018 tiếp tục tăng trưởng khả quan. Thị trường lao động Mỹ duy trì đà cải thiện với tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống mức thấp nhất 17 năm, nền kinh tế dự báo tích cực nhờ hiệu ứng giảm thuế. Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực châu Âu duy trì ổn định ở mức thấp nhất trong 9 năm, nhu cầu nội địa tăng nhờ chính sách lãi suất thấp của Ngân hàng Trung ương châu Âu (ECB), song lạm phát vẫn yếu.

Kinh tế Nhật Bản diễn biến khả quan do hoạt động chi tiêu tiêu dùng, sản xuất, xuất khẩu tăng cao; lạm phát tháng 1/2018 tăng lên mức tăng cao nhất trong 3 năm chủ yếu do giá thực phẩm tăng mạnh. Các chỉ số vĩ mô của Trung quốc diễn biến tích cực, xuất khẩu tăng mạnh, tiêu dùng nội địa ổn định, song lạm phát tăng lên mức cao nhất trong 4 năm. 

 Thạc sĩ Nguyễn Ngọc Cảnh

Thương mại toàn cầu duy trì đà tăng trưởng tích cực trong quý I/2018 do giá hàng hóa, năng lượng dần phục hồi; các hiệp định thương mại tư do song phương, đa phương thế hệ mới tiếp tục được đẩy mạnh. Tuy nhiên, hàng loạt biện pháp bảo hộ thương mại của Mỹ được đẩy mạnh từ đầu năm 2018 đang tạo ra các rủi ro, thách thức đối với thương mại toàn cầu.

Trong quý I/2018, USD tiếp tục mất giá, mặc dù có xu hướng phục hồi nhẹ từ giữa tháng 2, nhưng vẫn dao động ở mức thấp. Tính đến ngày cuối tháng 3/2018, chỉ số USD-Index ở mức 89,75, giảm 2,6% so với cuối năm trước, trong đó giảm 3% so với EUR, giảm 3,2% so với GBP, giảm 5,4% so với JPY và giảm 2,8% so với CNY.

Xu hướng giảm mạnh của USD trong tháng 1 và nửa đầu tháng 2/2018 vẫn tiếp nối diễn biến của năm 2017, chủ yếu do việc điều chỉnh lãi suất của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) đã được thị trường ”định giá” từ cuối năm 2015 và năm 2016, đồng thời giá hàng hóa thế giới phục hồi kích thích xu hướng chuyển dịch đầu tư sang hàng hóa.

Từ giữa tháng 2/2018, giá USD trên thế giới có chiều hướng phục hồi nhẹ sau các thông tin kinh tế Mỹ khả quan, kỳ vọng về lạm phát và phát biểu của tân Chủ tịch Fed Jerome Powell khiến thị trường dự kiến Fed có khả năng đẩy nhanh tốc độ tăng lãi suất trong năm 2018.

Các nước phát triển thay đổi điều hành chính sách tiền tệ, tài khóa, theo đó chính sách tiền tệ (CSTT) được điều hành thận trọng hơn, ngoại trừ Nhật Bản. Vào tháng 3/2018, Fed đã chính thức tăng lãi suất cơ bản USD thêm 0,25%/năm, lên mức 1,75%/năm và dự kiến sẽ tăng lãi suất cơ bản thêm ít nhất 2 lần nữa trong năm 2018.

Ngân hàng Trung ương Anh cũng được kỳ vọng sẽ tiếp tục tăng lãi suất trong năm nay nhằm đưa lạm phát về mức mục tiêu 2%. ECB thu hẹp quy mô mua tài sản từ mức 60 tỷ EUR/tháng xuống 30 tỷ EUR/tháng từ đầu năm 2018.

Riêng Ngân hàng Trung ương Nhật Bản duy trì chính sách nới lỏng hiện tại nhằm đưa lạm phát đạt mức mục tiêu 2% trong năm tài chính 2019. Bên cạnh một số nước mới nổi tiếp tục giảm lãi suất như Brazil, Nga, Hy Lạp, Peru..., một số nước khác tăng lãi suất như Mexico, Séc, Ukraine, Malaysia...

Năm 2018, Mỹ thực hiện Chương trình cải cách thuế với nội dung chính là giảm mạnh thuế thu nhập cho doanh nghiệp và cá nhân trong nội địa nước Mỹ. Chương trình có thể tác động trái chiều theo hướng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế Mỹ, nhưng cũng gây ra những tác động không mong muốn lên kinh tế và thương mại toàn cầu.

 Dự trữ ngoại hối nhà nước hiện ở mức cao nhất trong lịch sử

Diễn biến kinh tế thế giới trong quý I/2018 nêu trên cho thấy có nhiều yếu tố thuận lợi cho kinh tế Việt Nam trên các góc độ như thúc đẩy xuất khẩu, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, kiểm soát lạm phát, ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối.

Mặc dù vậy, rủi ro vẫn tiềm ẩn trong thời gian tới xuất phát từ việc đẩy mạnh bảo hộ thương mại của các nước, diễn biến khó lường trong điều hành CSTT, tài khóa tại các nước phát triển, tiến trình "Brexit" và căng thẳng địa - chính trị có thể ảnh hưởng lên triển vọng kinh tế thế giới cũng như thị trường hàng hóa tiền tệ toàn cầu, theo đó tạo rủi ro đối với tăng trưởng, lạm phát của Việt Nam, gây áp lực lên điều hành lãi suất, tỷ giá của NHNN.

Trước các diễn biễn và dự báo về thị trường tài chính quốc tế, trong quý I/2018, với định hướng điều hành chính sách tiền tệ, tỷ giá và công tác quản lý ngoại hối linh hoạt, chủ động, dẫn dắt thị trường của NHNN, các luồng vốn ngoại tệ vào Việt Nam tiếp tục diễn biến tích cực, đặc biệt là các dòng vốn mua bán cổ phần tại một số doanh nghiệp nhà nước lớn, đã góp phần ổn định thị trường ngoại hối và gia tăng quy mô dự trữ ngoại hối nhà nước. Cán cân thanh toán thặng dư ở mức cao nhờ xuất siêu hàng hóa, kiều hối và các luồng vốn đầu tư nước ngoài chuyển về nước tăng trưởng tốt.

Tính đến ngày cuối tháng 3/2018, cán cân thanh toán tổng thể thặng dư ở mức khoảng 8 tỷ USD. Cụ thể, cán cân thương mại xuất siêu trong 2 tháng đầu năm 2018, đạt mức 504 triệu USD. Chuyển tiền kiều hối tăng ổn định. Tính chung, trong 2 tháng đầu năm 2018, tổng lượng kiều hối chuyển về nước ước đạt 1,65 tỷ USD, tăng 19% so với cùng kỳ năm 2017 và ở mức cao so với cùng kỳ các năm trước.

Ước tính, quý I/2018, kiều hối đạt khoảng 2,6 tỷ USD, tăng khoảng 15% so với cùng kỳ năm 2017. Thu từ xuất khẩu dịch vụ dự kiến tiếp tục tăng. Trong 2 tháng đầu năm 2018, khách quốc tế đến Việt Nam đạt gần 2,9 triệu lượt, tăng 29,7% so với mức 2,2 triệu lượt của cùng kỳ 2017.

Bên cạnh đó, cán cân tài chính dự kiến thặng dư ở mức cao, trong đó đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam tăng khá trong 2 tháng đầu năm 2018: FDI giải ngân đạt 1,4 tỷ USD, tăng 12,9% so với cùng kỳ năm trước.

Dòng vốn đầu tư gián tiếp tăng mạnh trong bối cảnh thị trường chứng khoán tăng trưởng tốt. Các chỉ số chứng khoán và giá trị giao dịch đều tăng mạnh so với cùng kỳ năm 2017.

Vay ngắn hạn tăng cao, chủ yếu phục vụ các doanh nghiệp FDI nhập khẩu hàng hóa, dịch vụ phục vụ sản xuất. Trong quý I/2018, mức vay nước ngoài ngắn hạn tiếp tục ở mức cao do các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp FDI có nhu cầu vay nước ngoài ngắn hạn để nhập khẩu hàng hóa phục vụ sản xuất.

Chỉ riêng trong tháng 1/2018, Công ty Gang thép Formosa Hà Tĩnh đã rút vốn gần 1,7 tỷ USD phục vụ cơ cấu lại nợ ngắn hạn nước ngoài và thanh toán nhập khẩu nguyên liệu đầu vào cho lò luyện thép. Mức vay ròng trong quý I/2018 của các doanh nghiệp (không bao gồm tổ chức tín dụng) có thể lên đến 500 triệu USD. Rút vốn vay trung dài hạn (ròng) ước tương đương các năm trước. Ước trong quý I/2018, mức rút vốn vay nước ngoài ở mức 2,25 tỷ USD.

 Sự khởi sắc của nền kinh tế chung tạo đà khơi thông dòng ngoại tệ chảy vào Việt Nam

Theo kế hoạch đã đăng ký với NHNN, mức trả nợ vay nước ngoài trong quý I/2018 của các khoản vay đã được NHNN xác nhận đăng ký dự kiến ở mức 820 triệu USD. Do đó, mức rút vốn ròng vay trung - dài hạn nước ngoài trong quý I/2018 ước khoảng 1,6 tỷ USD. Tiền và tiền gửi của toàn hệ thống thặng dư lớn, đảo chiều so với mức thâm hụt của cùng kỳ.

Tính chung, trong 3 tháng đầu năm 2018 (đến ngày 7/3/2018), hạng mục tiền và tiền gửi của toàn hệ thống thặng dư trên 3 tỷ USD, đảo chiều so với mức thâm hụt nhẹ của cùng kỳ năm 2017, chủ yếu do tâm lý găm giữ ngoại tệ giảm mạnh khiến người dân và doanh nghiệp rút tiền gửi USD bán cho hệ thống ngân hàng và hệ thống TCTD bán ngoại tệ cho NHNN.

Nhờ vậy, dự trữ ngoại hối tiếp tục tăng đáng kể so với cuối năm 2017, đạt mức kỷ lục từ trước đến nay, vượt ngưỡng 60 tỷ USD. Đồng thời, song song với việc mua ngoại tệ bổ sung dự trữ ngoại hối nhà nước, NHNN đã thực hiện trung hòa thành công lượng tiền đồng trên thị trường do việc mua lượng lớn ngoại tệ bổ sung dự trữ ngoại hối nhà nước từ nguồn thoái vốn các doanh nghiệp nhà nước, bao gồm Sabeco vào cuối năm 2017 và hoạt động mua ngoại tệ bổ sung dự trữ ngoại hối nhà nước trong những tháng đầu năm 2018. Đồng thời, lạm phát vẫn được kiểm soát chặt chẽ, củng cố niềm tin của tổ chức và dân cư, cũng như các nhà đầu tư vào giá trị VND.

Bối cảnh kinh tế quốc tế, trong nước và khuyến nghị chính sách đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô

Từ nay đến cuối năm, kinh tế và thị trường tài chính quốc tế cũng như trong nước dự báo có nhiều yếu tố thuận lợi.

Đối với kinh tế và thị trường tài chính quốc tế: Nhiều tổ chức quốc tế đều dự báo kinh tế thế giới sẽ tiếp tục phục hồi tích cực trong năm 2018. Theo đó, OECD dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2018 sẽ đạt 3,9%, cao nhất trong 7 năm qua; IMF nâng dự báo tăng trưởng kinh tế thế giới năm 2018 lên 3,9%; World Bank dự báo đạt 2,9%.

Trong đó, xu hướng phục hồi tiếp tục được dẫn dắt bởi Mỹ (2018f: 2,7%) và tại khu vực các nước mới nổi và đang phát triển (2018f: 4,9%). Kinh tế khu vực châu Âu và Nhật Bản tăng trưởng chậm hơn năm 2017 (châu Âu 2018f: 2,2%, Nhật Bản 2018f: 1,2%) nhưng vẫn ở mức cao hơn giai đoạn 2011 - 2016.

Thương mại toàn cầu năm 2018 dự báo tiếp tục tăng trưởng, các tổ chức quốc tế dự báo mức tăng năm 2018 phổ biến trong khoảng 4-4,6%, trong đó lĩnh vực hàng chế tạo, máy móc, điện tử dự báo tăng trưởng mạnh do nhu cầu cải thiện và chu kỳ tăng đầu tư sản xuất toàn cầu.

FDI toàn cầu dự báo sẽ tiếp tục xu hướng phục hồi khiêm tốn trong năm 2018 nhờ tăng trưởng kinh tế cao hơn ở nhiều nước trên thế giới và sự hồi phục của thương mại. Hội nghị của Liên hiệp quốc về thương mại và phát triển dự báo, dòng vốn FDI sẽ tăng từ 1.800 tỷ USD năm 2017 lên 1.850 tỷ USD năm 2018.

Mặc dù có cải thiện trong năm 2018, nhưng rủi ro về bất ổn chính sách, địa - chính trị và thay đổi chính sách thuế có thể ảnh hưởng lớn tới dòng vốn FDI. Với Hiệp định CPTPP không có Mỹ, dự báo FDI vào các nước thành viên của khối có thể bị ảnh hưởng tiêu cực trong ngắn hạn. FDI từ Trung Quốc có thể giảm tốc trong thời gian tới do nước này bắt đầu kiềm chế dòng vốn đầu tư ra nước ngoài, đặc biệt là dưới hình thức mua bán - sáp nhập.

Dòng vốn đầu tư gián tiếp vào các thị trường mới nổi được dự báo sẽ tăng từ 1.100 tỷ USD năm 2017 lên 1.200 tỷ USD năm 2018 do tăng trưởng kinh tế được cải thiện.

Xu hướng tăng giá hàng hóa thế giới góp phần vào sự phục hồi của lạm phát toàn cầu năm 2018, nhưng lạm phát cơ bản tại nhiều nước vẫn khá ổn định. IMF dự báo, lạm phát thế giới năm 2018 ở mức 3,3%, trong đó lạm phát tại các nước phát triển là 1,9%, các nước mới nổi và đang phát triển là 4,5%.

Đối với kinh tế trong nước, có nhiều yếu tố thuận lợi. Một là, các nền kinh tế lớn là đối tác hàng đầu của Việt Nam tiếp tục tăng trưởng tích cực; giá năng lượng và nông sản thế giới phục hồi sẽ tác động tích cực đến tăng trưởng, xuất khẩu, thu ngân sách của Việt Nam.

Hai là, môi trường kinh tế thuận lợi với nền tảng chính trị ổn định, lạm phát thấp, cán cân thanh toán thặng dư, dự trữ ngoại hối nhà nước liên tục tăng cao, sự cải thiện mạnh mẽ về môi trường đầu tư kinh doanh, cải cách hành chính hỗ trợ tốt hơn cho hoạt động của doanh nghiệp trong nước, thúc đẩy kinh tế tư nhân phát triển, thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, cũng như các dòng vốn đầu tư gián tiếp, mua bán cổ phần tại một số doanh nghiệp lớn (PV Oil, Nhựa Bình Minh…) và ngân hàng thương mại cổ phần (VPBank, HDBank...).

Ba là, thị trường chứng khoán phục hồi góp phần bổ sung nguồn vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế. Bốn là, Hiệp định CPTPP được ký kết sẽ giúp các doanh nghiệp mở rộng thị trường, thu hút đầu tư nước ngoài, thúc đẩy cải cách trong nước theo hướng hội nhập để tham gia sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.

Tuy nhiên, kinh tế trong nước và thị trường tài chính vẫn tiềm ẩn một số rủi ro, thách thức.

Thứ nhất, tình hình kinh tế tài chính quốc tế có thể có những tác động bất lợi đến Việt Nam như: (i) Trên thế giới, chủ nghĩa bảo hộ gia tăng, khủng bố, vấn nạn di cư, khủng hoảng Syria; tiến trình đàm phán Brexit sẽ tác động tiêu cực đến triển vọng kinh tế toàn cầu, qua đó tác động đến xuất khẩu, đầu tư và tăng trưởng kinh tế của Việt Nam;

(ii) Hệ thống tài chính toàn cầu có nguy cơ gặp rủi ro từ khoản nợ toàn cầu cao;

(iii) Giá các tài sản tài chính quá cao, cao hơn cả những thời điểm khủng hoảng tài chính trước đây gây quan ngại trong giới phân tích về tình trạng “bong bóng” tài sản tài chính đang diễn ra và đặt khu vực tài chính, kinh tế toàn cầu trước rủi ro cao, đối mặt với một cuộc khủng hoảng tài chính ở cấp độ toàn thế giới; cùng với đó là những rủi ro đang tích lũy trong nội tại nền kinh tế Trung Quốc như tình trạng bất động sản dư thừa nhưng vẫn tăng giá, dẫn tới cầu về tín dụng cao trong thời gian gần đây.

(iv) Xu hướng “bình thường hóa” chính sách tiền tệ của các nước phát triển, đặc biệt việc Fed tăng lãi suất và chương trình cải cách thuế của Mỹ có thể khiến dòng vốn rút khỏi các thị trường để quay về đầu tư tại Mỹ và các nước phát triển, tạo ra các rủi ro tiềm ẩn đối với việc điều hành tỷ giá, lãi suất tại Việt Nam.

Gần đây, lợi suất trái phiếu chính phủ Mỹ kỳ hạn 10 năm đã vượt ngưỡng 3%; đồng thời, theo tính toán của IMF, nếu như Fed tăng lãi suất lên 3,6% vào đầu năm 2020 thì dòng vốn đầu tư vào các thị trường mới nổi dự báo giảm bình quân 40 tỷ USD/năm trong giai đoạn 2018 - 2019.

Hơn nữa, xu hướng tăng lãi suất trên thế giới cũng sẽ tạo áp lực tăng lãi suất USD trong nước, kéo theo áp lực lên mặt bằng lãi suất VND để đảm bảo lợi ích nắm giữ VND. Ngoài ra, việc Fed tăng lãi suất có thể có tác động tạo tâm lý, động lực giữ USD, làm gia tăng tình trạng đô-la hóa.

(v) Ngoài ra, USD tăng giá trên thị trường thế giới sẽ có tác động đến tỷ giá của Việt Nam. Trước thông tin lợi suất trái phiếu chính phủ Mỹ tăng vượt ngưỡng 3%, chỉ số Dollar Index có lúc tăng lên 91,261 điểm, mức cao nhất kể từ ngày 12/1/2018 và đứng ở mức 91,181 điểm trong sáng 26/4/2018.

Thứ hai, tình hình kinh tế trong nước cũng có những khó khăn nội tại, bao gồm: (i) nợ công ở mức cao và có xu hướng tăng nhanh trong những năm gần đây tiềm ẩn nguy cơ bất ổn vĩ mô, hạn chế dư địa nới lỏng tài khóa để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế;

(ii) Tình trạng giải ngân vốn đầu tư công chậm chưa được khắc phục trong điều kiện vướng mắc trong thủ tục giải ngân chưa được giải quyết căn bản;

(iii) Một số vấn đề liên quan đến các dự án xây dựng cơ sở hạ tầng theo hình thức BOT, BT, EPC… có thể ảnh hưởng đến kết quả đầu tư, xây dựng trong thời gian tới.

(iv) Thị trường chứng khoán tăng trưởng nhanh từ năm 2017, sự điều chỉnh trên thị trường nếu ở quy mô lớn có thể có tác động đến hệ thống tài chính.

Trong bối cảnh trên, NHNN sẽ bám sát diễn biến kinh tế vĩ mô, tiền tệ để chủ động, phối hợp điều hành linh hoạt, đồng bộ các công cụ chính sách tiền tệ và hoạt động ngân hàng nhằm ổn định thị trường tiền tệ, ngoại hối, kiểm soát lạm phát, tốc độ tăng tổng phương tiện thanh toán, tăng trưởng tín dụng theo định hướng của Chính phủ và Nghị quyết của Quốc hội.

Đồng thời, phối hợp với các chính sách vĩ mô khác nhằm kiểm soát lạm phát, góp phần ổn định kinh tế vĩ mô, hỗ trợ tăng trưởng kinh tế hợp lý. Tiếp tục chủ trương thu hẹp cho vay ngoại tệ, linh hoạt điều hành lãi suất VND và USD ở mức hợp lý theo hướng có lợi cho người nắm giữ VND, góp phần chuyển dịch việc nắm giữ từ USD sang VND.

Bên cạnh đó, về quản lý ngoại hối: i) Hoàn thiện khuôn khổ pháp lý về quản lý ngoại hối, trong đó tiếp tục đảm bảo nguyên tắc tự do hóa các giao dịch vãng lai; chính sách kiều hối thực hiện theo định hướng thu hút dòng kiều hối chuyển về nước, nhưng vẫn đảm bảo tính minh bạch của các dòng tiền chuyển về, hạn chế hoạt động chuyển tiền bất hợp pháp.

(ii) Công tác quản lý các giao dịch vốn tiếp tục được thực hiện chủ động, linh hoạt, dựa trên nguyên tắc từng bước tự do hóa các giao dịch vốn một cách thận trọng, phù hợp với Đề án Lộ trình tự do hóa các giao dịch vốn đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và các chính sách vĩ mô khác trong từng giai đoạn, nhằm thu hút và sử dụng hiệu quả dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp tiếp cận nguồn vốn vay nước ngoài an toàn, hiệu quả, song vẫn phải đảm bảo các tỷ lệ an toàn nợ nước ngoài quốc gia, đảm bảo phù hợp với trình độ phát triển của thị trường tài chính trong nước.

(iii) Tiếp tục triển khai các giải pháp hạn chế sử dụng ngoại tệ trong lãnh thổ, kiểm soát tín dụng ngoại tệ, hạn chế tình trạng đô-la hóa trong nền kinh tế; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, tập huấn về thực thi chính sách quản lý ngoại hối, tăng cường công tác phối hợp liên ngành, công tác thanh tra hoạt động ngoại hối và thực hiện xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm; tập trung ngoại tệ vào hệ thống ngân hàng, ổn định thị trường ngoại hối và tăng quy mô dự trữ ngoại hối nhà nước khi điều kiện thị trường thuận lợi.

Về chính sách tài khóa, theo dõi sát tình hình biến động của kinh tế và thị trường tài chính quốc tế về lãi suất và tỷ giá để có các chính sách phù hợp. Trong điều kiện nhiều sắc thuế bị điều chỉnh giảm, cần có các giải pháp tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước thông qua việc mở rộng cơ sở thuế, chống thất thu để đảm bảo cân đối ngân sách, góp phần duy trì ổn định vĩ mô. Tăng cường kỷ luật tài chính, triệt để tiết kiệm các khoản chi, kiểm soát chặt chẽ nợ công, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Tăng sức hấp dẫn cho thị trường chứng khoán và niềm tin nhà đầu tư.

Trong bối cảnh Fed tăng lãi suất nhanh hơn và căng thẳng thương mại giữa Trung Quốc và Mỹ xấu đi có thể có tác động đến thị trường chứng khoán toàn cầu và thị trường chứng khoán Việt Nam, ảnh hưởng đến thị trường ngoại hối, cần triển khai đồng bộ các giải pháp, chẳng hạn như thúc đẩy quá trình cổ phần hóa, mua bán cổ phần tại một số doanh nghiệp và ngân hàng thương mại khi thị trường thuận lợi; giám sát chặt chẽ các dòng vốn nước ngoài, đặc biệt là dòng vốn ngắn hạn; tập trung ngoại tệ tại NHNN; cải cách thể chế, chuyển dịch cơ cấu thành phần kinh tế, tăng năng suất lao động và tiếp tục cải cách thủ tục hành chính theo hướng tinh gọn, giảm thiểu giấy phép con chồng chéo giữa các cơ quan quản lý nhà nước.

Tin bài liên quan