Cần thêm một lần giảm 0,25% lãi suất điều hành để có thể giảm lãi suất cho vay.

Cần thêm một lần giảm 0,25% lãi suất điều hành để có thể giảm lãi suất cho vay.

Giảm lãi suất cho vay, cách nào?

(ĐTCK) Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vừa giảm 0,25% lãi suất điều hành. Theo giới chuyên gia, mức giảm này chưa đủ tác động làm giảm mặt bằng lãi suất cho vay và để có thể giảm, cần thêm giải pháp…

Giảm thêm lãi suất điều hành…

Hiện các ngân hàng thương mại hoạt động theo Luật Các tổ chức tín dụng, lãi suất cho vay theo cơ chế tự thỏa thuận, không có trần lãi suất.

Riêng với lãi suất huy động, hiện NHNN chỉ quy định trần 5,5%/năm với các khoản tiền gửi có kỳ hạn dưới 6 tháng.

Trên thực tế, NHNN điều hành lãi suất chủ yếu thông qua các lãi suất trong giao dịch giữa NHNN với các ngân hàng thương mại, bao gồm lãi suất tái chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn, lãi suất cho vay qua đêm trong thanh toán điện tử liên ngân hàng và cho vay bù đắp thiếu hụt vốn trong thanh toán bù trừ, lãi suất mua kỳ hạn giấy tờ có giá (lãi suất OMO) và lãi suất tín phiếu.

Các loại lãi suất này đều vừa được NHNN điều chỉnh giảm 0,25%.

Trao đổi với Báo Ðầu tư Chứng khoán, giám đốc một doanh nghiệp sản xuất bao bì tại Ðồng Nai chia sẻ, ông đã biết thông tin NHNN hạ lãi suất điều hành, nhưng liên lạc với ngân hàng, nơi ông đang có các giao dịch như vay vốn, gửi tiền và chuyển tiền… thì được cho biết, chưa có thông báo về việc hạ lãi suất cho doanh nghiệp.

Lãnh đạo cao cấp một ngân hàng thương mại thừa nhận: “Nếu tôi nói, hạ lãi suất điều hành giúp được doanh nghiệp có lãi suất vay thấp hơn ngay lập tức là nói dối”.

Ðồng quan điểm, TS. Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia kinh tế phân tích, khi NHNN giảm lãi suất điều hành 0,25% trên nguyên tắc sẽ phải tác động giảm lên mặt bằng lãi suất cho vay nói chung, từ đó giảm lãi suất cho vay.

Tuy nhiên, khi hạ lãi suất điều hành, cần độ trễ từ 1-3 tháng để có tác động đến doanh nghiệp và mức độ tác động nếu có cũng sẽ không nhiều.

“Lãi suất điều hành trên thị trường 2 là lãi suất NHNN sử dụng để điều hành chính sách tiền tệ, còn lãi suất trên thị trường 1 là lãi suất huy động và lãi suất cho vay giữa các tổ chức tín dụng với các thành phần kinh tế khác. Lãi suất trên thị trường 2 không gắn kết chặt chẽ với lãi suất trên thị trường 1. Ðiều này rất khác so với Mỹ, khi lãi suất luôn gắn kết với nhau”, TS. Hiếu nói.

TS. Hiếu phân tích, ở Mỹ có nhiều loại lãi suất tham chiếu, nhưng lãi suất tham chiếu căn bản nhất là Fed Funds Overnight Rate, được xem là lãi suất trung tâm mà tất cả các loại lãi suất khác như Prime Rate (lãi suất cho vay doanh nghiệp chuẩn), LIBOR, lãi suất vay mua nhà, mua xe ô tô, thẻ tín dụng đều liên kết chặt chẽ và xoay quanh.

Ủy ban Thị trường mở (FOMC) là cơ quan tạo lập chính sách tiền tệ của Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed) họp 8 lần trong 1 năm, mỗi lần họp sẽ định ra lãi suất mục tiêu là bao nhiêu.

“Chẳng hạn, mục tiêu là 1% thì FOMC sẽ không áp đặt mức này lên thị trường ngay, mà dùng những công cụ thị trường mở, lãi suất, dự trữ bắt buộc để thị trường tiến tới lãi suất mục tiêu này. Khi đạt được lãi suất mục tiêu, ngay lập tức, các lãi suất khác như đã nêu ở trên sẽ xoay quanh mức lãi suất này. Do đó, khi Fed thay đổi lãi suất tham chiếu, tất cả các lãi suất đều xoay quanh và thay đổi theo ngay lập tức mà không có độ trễ”, TS. Hiếu nêu ví dụ.

Trong khi đó, lãi suất điều hành tại Việt Nam được hiểu theo tiếng Anh là Regulatory Interest Rate (do NHNN ấn định và điều hành) thì không có ở bên Mỹ. Tại Việt Nam, NHNN sử dụng lãi suất điều hành để điều chỉnh mặt bằng lãi suất trên thị trường 2.

Nhưng vì không có sự liên kết chặt chẽ giữa lãi suất trên thị trường 2 và thị trường 1 nên việc điều chỉnh lãi suất điều hành không có tác dụng trực tiếp và tức thời lên mặt bằng lãi suất trên thị trường 1, bao gồm lãi suất cho vay doanh nghiệp, hộ kinh doanh và cá nhân.

Giám đốc Nguồn vốn một ngân hàng chia sẻ: “Vốn thị trường 2 chỉ đáp ứng các nhu cầu vốn ngắn hạn, không dùng để cấp tín dụng và bị hạn chế bởi tỷ lệ 20% so với vốn huy động tổ chức kinh tế và dân cư, nên tính liên thông từ thị trường 2 xuống thị trường 1 cần một thời gian dài”.

“NHNN có thể thay đổi lãi suất điều hành, nhưng sẽ không có tác động nhiều và nếu có tác động thì cần độ trễ từ 1-3 tháng. Tuy nhiên, theo tôi, mức giảm 0,25% không phải là lớn. Cần có thêm 1 đợt hạ lãi suất với mức giảm tương tự thì lãi suất trên thị trường 1 mới có thể được kéo xuống”, TS. Hiếu nói.

…Hoặc sự “đồng lòng” của các ngân hàng lớn

Thực tế cho thấy, NHNN điều hành chính sách tiền tệ trực tiếp thông qua các chỉ tiêu về tăng trưởng tín dụng, tăng trưởng tổng phương tiện thanh toán (M2)…, chứ không phải qua trung gian là lãi suất điều hành như các nước khác, nên không khó để lý giải khi tác động của việc điều chỉnh lãi suất điều hành không lớn.

Trong ngắn hạn, mặt bằng lãi suất giao dịch trên thị trường liên ngân hàng và lợi tức trái phiếu chính phủ các kỳ hạn ngắn trên thứ cấp là 2 đối tượng chịu tác động mạnh nhất từ việc điều chỉnh lãi suất OMO.

“Xét dài hơn, các lãi suất trên thị trường liên ngân hàng sẽ dao động trong khoảng từ lãi suất tín phiếu đến lãi suất OMO (từ 2,75-4,5%/năm). Trong điều kiện lý tưởng, giá vốn rẻ hơn trên thị trường liên ngân hàng (và môi trường thanh khoản được kỳ vọng sẽ được giữ dồi dào) sẽ tạo cơ sở để các ngân hàng điều chỉnh giảm mặt bằng lãi suất trên thị trường 1”, một báo cáo vừa công bố của CTCP Chứng khoán SSI nêu rõ.

Cũng theo SSI, dù tác động đến thị trường 1 là hạn chế, nhưng đây là động thái tiếp theo sau một loạt hành động trước đó như các ngân hàng vốn nhà nước tiên phong giảm lãi suất cho vay với các nhóm ngành ưu tiên 2 lần kể từ đầu năm đến nay;

NHNN tuyên bố sẽ xử lý nghiêm các ngân hàng chạy đua tăng lãi suất huy động, trong đó bao gồm cả việc cắt giảm tăng trưởng tín dụng; kiểm soát chặt chẽ các hoạt động cho vay bất động sản và đầu tư trái phiếu bất động sản của các ngân hàng…

Qua đó, thể hiện sự tăng cường kiểm soát dòng chảy tín dụng và chủ trương giảm mặt bằng lãi suất để hỗ trợ cho các doanh nghiệp.

Một lãnh đạo cao cấp NHNN cho hay, thời gian qua, các ngân hàng yếu thanh khoản đã đẩy lãi suất huy động lên khá cao, nới rộng khoảng cách với lãi suất huy động của nhóm ngân hàng vốn nhà nước và ngân hàng cổ phần quy mô lớn.

Tuy nhiên, với tỷ trọng trên 70% thị phần huy động và cho vay, nhóm ngân hàng vốn nhà nước và ngân hàng cổ phần lớn mới là nhóm đóng vai trò quyết định trong xu hướng lãi suất chung của thị trường 1.

“Trong bối cảnh có nhiều yếu tố thuận lợi, các biện pháp kỹ thuật của NHNN nếu có được sự đồng lòng của các ngân hàng lớn thì mục tiêu giảm lãi suất vẫn có thể đạt được, mà chưa cần phải dùng đến biện pháp nới lỏng tiền tệ, bơm tiền vào nền kinh tế”, vị lãnh đạo NHNN nói.

Tin bài liên quan