Văn bản pháp lý đã đầy đủ
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) vừa có văn bản số 1968/NHNN-TTGSNH yêu cầu các tổ chức tín dụng (TCTD) đẩy mạnh xử lý nợ xấu. Yêu cầu này đưa ra để các ngân hàng đạt mục tiêu đưa tỷ lệ nợ xấu nội bảng, nợ đã bán cho VAMC và nợ đã thực hiện các biện pháp phân loại nợ xuống dưới 3% từ nay đến năm 2020.
Tuy nhiên, điểm đáng chú ý là văn bản này yêu cầu thực hiện dự thu lãi phù hợp với thực trạng các khoản nợ đảm bảo tuân thủ đúng quy định của pháp luật để phản ánh kết quả hoạt động kinh doanh. Ngân hàng cũng cần thường xuyên rà soát tình hình thực tế của các khoản nợ đang dự thu lãi, đặc biệt các khoản lãi dự thu lớn. Điều này giúp các đơn vị kịp thời thoái lãi thu đối với các trường hợp khó thu hồi, thoái các khoản thu lãi dự thu theo quy định.
Văn bản số 1968 cho thấy, NHNN tiếp tục yêu cầu các ngân hàng thực hiện đúng quy định pháp luật về dự thu lãi phù hợp. Chuyên gia kinh tế Lê Xuân Nghĩa cho biết, việc hạch toán lãi dự thu được thực hiện theo nguyên tắc kế toán của Bộ Tài chính. Điều này được thể hiện trong Thông tư 16/2018/TT-BTC hướng dẫn một số điều về chế độ tài chính đối với TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài và Nghị quyết 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD.
Cần lộ trình thoái phù hợp cho từng ngân hàng
Khảo sát từ báo cáo tài chính năm 2018 đã công bố của 23 ngân hàng cho thấy, tổng số lãi dự thu tại các ngân hàng tính đến cuối năm đạt hơn 77.000 tỷ đồng, tăng 2,7% so với cuối năm 2017 (hơn 75.000 tỷ đồng). Trong đó, BIDV có số dư lãi, phí dự thu cao nhất với 11.897 tỷ đồng, tăng 25,5%; tiếp theo là Vietcombank với 7.410 tỷ đồng và VietinBank là 6.905 tỷ đồng. Xét về tỷ lệ giảm lãi dự thu, VietinBank có tỷ lệ giảm cao nhất, đạt 52% (từ 14.524 tỷ đồng giảm về 6.905 tỷ đồng). Cùng có tỷ lệ giảm lãi dự thu cao là VietABank là 15,1%; ABBank 13,3%, Maritime Bank 7,1%...
Chuyên gia tài chính Nguyễn Trí Hiếu, cố vấn cao cấp của NCB phân tích, trên bản cân đối kế toán của ngân hàng, sẽ có một bên là tài sản có và một bên là tài sản nợ. Bên tài sản có bao gồm các khoản mục như tài sản cố định, tài sản có khác, cho vay khách hàng… Các khoản phải thu; lãi, phí phải thu thuộc khoản mục tài sản có khác. Trong đó, khoản lãi, phí phải thu sẽ làm tăng lợi nhuận của ngân hàng. Các khoản này bên bảng kết quả kinh doanh được ghi như là lợi tức trong phần thu nhập lãi.
Để làm rõ hơn, ông Hiếu minh họa: Giả sử, khoản phải thu lãi là 10 đồng, trên bảng cân đối kế toán ghi nhận là 10 đồng ở tài sản có và kết quả kinh doanh trong phần thu nhập lãi cũng tăng lên 10 đồng. Nếu không thu được sẽ phải thoái lãi, đưa 10 đồng này vào mục chi phí, có thể là vào mục các khoản xử lý theo đề án tái cấu trúc ngân hàng. Đồng thời, trừ 10 đồng lãi phải thu ở tài sản có của bảng cân đối kế toán, dẫn đến giảm thu nhập và lợi nhuận của ngân hàng.
“Theo nguyên tắc kế toán, nếu không thu được, các ngân hàng phải tự động thoái lãi dự thu. Tuy nhiên, cũng có không ít ngân hàng dù biết không thu được nhưng vẫn không thoái để không bị ảnh hưởng đến lợi nhuận, làm đẹp sổ sách”, ông Hiếu nói.
Ông Nghĩa chia sẻ thêm: “Lợi nhuận dự tính chiếm 1/3 ở các ngân hàng bởi nợ xấu do lịch sử để lại là quá lớn. Tuy nhiên, nếu tính bình quân toàn hệ thống thì lãi dự thu không quá cao. Vấn đề quan trọng nhất là cần làm rõ lãi dự thu của từng ngân hàng (xét trên thực tế tình trạng tài chính của các ngân hàng) để có lộ trình thoái lãi dự thu phù hợp và không nên có một quy định áp dụng chung”.
Khoản 2, Điều 5, Thông tư 16/2018/TT-BTC - Nguyên tắc ghi nhận doanh thu: Đối với thu nhập lãi và các khoản thu nhập tương tự:
a) Thu lãi từ hoạt động cấp tín dụng: TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có trách nhiệm đánh giá khả năng thu hồi nợ và thực hiện phân loại nợ theo đúng quy định của pháp luật ngân hàng để làm căn cứ hạch toán lãi phải thu và thực hiện hạch toán như sau: TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài hạch toán số lãi phải thu phát sinh trong kỳ vào thu nhập đối với các khoản nợ được phân loại là nợ đủ tiêu chuẩn không phải trích dự phòng rủi ro cụ thể theo quy định; số lãi phải thu của các khoản nợ được giữ nguyên nhóm nợ đủ tiêu chuẩn do thực hiện chính sách của Nhà nước, số lãi phải thu phát sinh trong kỳ của các khoản nợ còn lại không phải hạch toán thu nhập. TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài thực hiện theo dõi ngoại bảng để đôn đốc thu, khi thu được thì hạch toán vào thu nhập.
b) Thu lãi tiền gửi: Là số lãi phải thu trong kỳ.
Điều 16, Nghị quyết 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các TCTD: Phân bổ lãi dự thu, chêch lệch khi bán khoản nợ xấu của TCTD, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu cũng quy định như sau:
1. TCTD được phân bổ số lãi dự thu đã ghi nhận của khoản nợ xấu của TCTD chưa thoái theo quy định, chênh lệch giữa giá trị ghi sổ của khoản nợ đang hạch toán trong bảng cân đối kế toán với giá bán khoản nợ xấu và số tiền dự phòng cụ thể đã trích lập cho khoản nợ này vào kết quả hoạt động kinh doanh hàng năm theo các nguyên tắc sau đây: a) Mức phân bổ hàng năm tối thiểu là mức chênh lệch thu chi từ kết quả kinh doanh hàng năm của TCTD; b) Thời hạn phân bổ số lãi dự thu tối đa là 10 năm, trừ trường hợp quy định tại Khoản 2, Điều này; thời hạn phân bổ chênh lệch giữa giá trị ghi sổ của khoản nợ đang hạch toán trong bảng cân đối kế toán với giá bán khoản nợ xấu và số tiền dự phòng cụ thể đã trích lập cho khoản nợ này tối đa là 05 năm.
2. Đối với lãi dự thu của khoản nợ xấu bán cho tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu chưa thoái theo quy định, thời gian phân bổ lãi dự thu tối đa không vượt quá thời hạn còn lại của trái phiếu đặc biệt của tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu.
3. TCTD chỉ được phân bổ số lãi dự thu theo quy định tại Khoản 1 và Khoản 2 Điều này đối với số lãi dự thu đã ghi nhận đến hết ngày 31/12/2016.
4. Tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu được phân bổ chênh lệch giữa giá trị ghi sổ của khoản nợ đang hạch toán trong bảng cân đối kế toán với giá bán khoản nợ xấu đã mua theo giá trị thị trường và số tiền dự phòng cụ thể đã trích lập cho khoản nợ này vào kết quả hoạt động kinh doanh hàng năm với mức phân bổ tối thiểu là chênh lệch thu chi.