TS. Đào Quốc Tính

TS. Đào Quốc Tính

Thực hiện Chuẩn mực vốn Basel: Hành trình không có điểm dừng

(ĐTCK) “Mặc dù vào thời điểm hiện nay, Việt Nam mới bắt đầu các bước để áp dụng Basel II, nhưng điều đó không có nghĩa Việt Nam đi chậm so với các nước”.

Đó là chia sẻ của TS. Đào Quốc Tính, Phó chánh Thanh tra, giám sát ngân hàng, Cơ quan Thanh tra, giám sát ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN).

Tại sao việc triển khai Chuẩn mực vốn Basel II được coi là một trong những điểm trọng tâm trong Đề án Cơ cấu lại hệ thống tổ chức tín dụng (TCTD), thưa ông?

So với các chuẩn mực vốn Basel trước đó, chuẩn mực vốn Basel II đã có những thay đổi cơ bản về cách tiếp cận. Theo đó, Basel II không chỉ yêu cầu về tỷ lệ an toàn vốn một cách toàn diện và tiến bộ hơn (Trụ cột I), mà còn yêu cầu TCTD phải tự đánh giá mức độ đủ vốn, quản lý rủi ro và yêu cầu của Cơ quan giám sát ngân hàng thực hiện thanh tra, giám sát về vốn, quản lý rủi ro của TCTD (Trụ cột II) và yêu cầu TCTD công khai thông tin theo kỷ luật thị trường (Trụ cột III).

Do đó, bên cạnh các giải pháp như sáp nhập, hợp nhất, xử lý các ngân hàng yếu kém… được nêu trong Đề án Cơ cấu lại hệ thống TCTD thì giải pháp triển khai Basel II được coi là trọng tâm vì đây là giải pháp thay đổi về chất và có tính chiến lược, tạo nền tảng phát triển bền vững cho hệ thống TCTD nói chung và từng TCTD nói riêng theo đúng chủ trương đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Đề án. Cụ thể:

- Đối với hệ thống TCTD, việc áp dụng Chuẩn mực vốn Basel II sẽ nâng cao sự an toàn, ổn định, hạn chế nguy cơ nợ xấu, phát triển lành mạnh, nâng cao sức cạnh tranh của hệ thống ngân hàng Việt Nam trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay.

- Đối với 10 ngân hàng được lựa chọn thí điểm, việc thực hiện Basel II được coi là giải pháp đột phá về quản lý rủi ro, phân bổ vốn hợp lý theo rủi ro, tạo ra giá trị cốt lõi để nâng cao sức cạnh tranh và sự phát triển bền vững trong tương lai cho chính bản thân các ngân hàng, tạo vị thế thuận lợi khi hội nhập quốc tế, tham gia thị trường các nước. Đối với các TCTD khác, việc áp dụng Basel II sẽ tạo động lực và định hướng cho ngân hàng trong việc nâng cao năng lực quản lý rủi ro và quản lý, phân bổ vốn theo các chuẩn mực quốc tế.

Basel II không chỉ có các quy định với các NHTM, mà cả với Ngân hàng Nhà nước - Ảnh: Hoài Nam 

NHNN là đơn vị đóng vai trò định hướng, hỗ trợ thực hiện Basel II với việc ban hành khung pháp lý, hỗ trợ kỹ thuật…  Một câu hỏi được đặt ra là nếu các ngân hàng hoặc một số ngân hàng trong nhóm được chọn thí điểm không triển khai được kế hoạch như lộ trình, NHNN sẽ làm gì tiếp theo?

Việc thực hiện Chuẩn mực vốn Basel là hành trình không có điểm kết thúc. Việc đưa ra các lộ trình cho các ngân hàng là tạo những mốc thời gian để yêu cầu các ngân hàng phải đạt được tiến bộ nhất định khi triển khai thực hiện. Để đảm bảo các NHTM thực hiện kế hoạch theo như lộ trình, NHNN đã có một số giải pháp, bao gồm:

- Yêu cầu ngân hàng, đặc biệt là 10 ngân hàng được lựa chọn phải đánh giá cụ thể mức độ chênh lệch giữa thực trạng hiện có và các yêu cầu của Basel II để xây dựng thành các hành động, dự án triển khai cụ thể theo từng quý gửi NHNN để đánh giá, yêu cầu điều chỉnh (nếu cần thiết), đảm bảo tính khả thi của kế hoạch triển khai Basel II đối với từng ngân hàng. 

- Yêu cầu NHTM hàng quý báo cáo rõ tiến độ triển khai, các khó khăn vướng mắc (nếu phát sinh) để phối hợp với NHNN xử lý trong suốt quá trình thực hiện.

- Công tác theo dõi, giám sát được thực hiện hằng quý đối với quá trình triển khai dự án, kế hoạch triển khai Basel II tại từng ngân hàng để NHNN kịp thời chỉ đạo, có các giải pháp phù hợp đảm bảo NHTM thực hiện theo đúng lộ trình đề ra.

Trong trường hợp ngân hàng không thực hiện được đúng lộ trình, thông qua kết quả giám sát thường xuyên, NHNN sẽ chủ động chỉ đạo NHTM thực hiện biện pháp cụ thể, điều chỉnh kế hoạch, tăng cường các nguồn lực cần thiết… để tiếp tục triển khai quyết liệt, đảm bảo đáp ứng đầy đủ các yêu cầu của Basel II trình NHNN phê duyệt.

Ảnh: Hoài Nam 

Theo các chuyên gia quốc tế thì các ngân hàng Việt Nam còn yếu về hệ thống công nghệ thông tin, thiếu nhân sự có kinh nghiệm và mức độ quyết tâm của lãnh đạo chưa cao. Đây là những điểm yếu rất khó khắc phục trong ngày một, ngày hai. Vậy theo đánh giá của NHNN, những thách thức, rủi ro có thể gặp phải trong quá trình áp dụng Basel II là gì?

Basel II không chỉ có các quy định với các NHTM, mà có cả các quy định đối với cơ quan giám sát ngân hàng, ở đây là NHNN. Việc triển khai thực hiện Basel II là nhiệm vụ không hề dễ dàng đối với cả NHNN và NHTM, vì nó đòi hỏi kỹ thuật phức tạp, sự đầu tư lớn về tài chính, nguồn nhân lực, hệ thống công nghệ thông tin của NHNN và các NHTM, trong khi năng lực thanh tra trên cơ sở rủi ro của NHNN mới chỉ ở giai đoạn thử nghiệm, bộ máy tổ chức quản trị điều hành và công tác quản lý rủi ro của các NHTM chưa phát huy hiệu quả, cơ sở dữ liệu và hệ thống công nghệ thông tin của NHNN và NHTM còn lạc hậu, bất cập…

Trên cơ sở nghiên cứu kinh nghiệm từ các nước đã áp dụng Basel II, NHNN đã tiến hành triển khai đồng bộ đối với cả NHNN và các NHTM, đồng thời có cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa NHNN và NHTM để khắc phục khó khăn, thách thức nêu trên, cụ thể:

- Xây dựng lộ trình thực hiện Basel II theo từng bước, từng giai đoạn và yêu cầu các NHTM đánh giá đầy đủ thực trạng trên tất cả các phương diện so với yêu cầu của Basel II để có kế hoạch cụ thể thu hẹp khoảng cách, tiến tới tuân thủ đầy đủ yêu cầu của Basel II.

- NHNN đã có kế hoạch ban hành các văn bản quy định, hướng dẫn cho các NHTM theo từng giai đoạn phù hợp với Lộ trình thực hiện Basel II, đảm bảo các NHTM triển khai thực hiện thống nhất và đúng đắn, đồng thời làm cơ sở để NHNN thực hiện việc giám sát, kiểm tra quá trình thực hiện Basel II của các NHTM.

- Có kế hoạch sử dụng hiệu quả nguồn nhân lực, nguồn tài chính hiện có của cả NHNN và các NHTM. NHNN phối hợp chặt chẽ với các NHTM để xử lý kịp thời các khó khăn, vướng mắc của từng NHTM trong quá trình thực hiện.

- NHNN và NHTM đã và đang tích cực triển khai dự án hiện đại hóa hệ thống công nghệ và cơ sở dữ liệu; có các giải pháp tối ưu hóa cơ sở dữ liệu, cơ sở hạ tầng thông tin hiện có thông qua cơ chế chia sẻ và hệ thống công nghệ tích hợp để phục vụ hiệu quả cho công tác thanh tra, giám sát của NHNN và việc triển khai, quản lý dự án tại các NHTM trong quá trình thực hiện Basel II.

- Tạo điều kiện thuận lợi cho các NHTM được tham gia các dự án hỗ trợ kỹ thuật của các tổ chức quốc tế để phát triển nguồn nhân lực, hoàn thiện hệ thống cơ sở dữ liệu và hạ tầng công nghệ cho NHNN và các NHTM. Việc đào tạo, bồi dưỡng và xây dựng đội ngũ cán bộ của NHNN và NHTM để triển khai Basel II luôn là ưu tiên hàng đầu trong thời gian qua cũng như trong các năm tiếp theo.

- Do hầu hết các ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam đã triển khai Basel II nên NHNN làm đầu mối tạo cơ chế hợp tác chia sẻ kinh nghiệm áp dụng Basel II giữa ngân hàng nước ngoài và TCTD Việt Nam thông qua các diễn đàn, hội thảo, tọa đàm hoặc thúc đẩy hợp tác song phương giữa các TCTD Vệt Nam và ngân hàng nước ngoài để có được những kinh nghiệm, tư vấn kỹ thuật triển khai Basel II, áp dụng cho hệ thống các TCTD Việt Nam.

Mặc dù đã có kế hoạch, lộ trình và các giải pháp phù hợp để tạo tiền đề quan trọng áp dụng thành công Basel II, nhưng thực tế triển khai có thể có một số TCTD không hoàn thành thực hiện Basel II theo đúng lộ trình đề ra do điều kiện khách quan và chủ quan. Vì vậy, NHNN đã quán triệt các TCTD việc thực hiện Basel là nội dung ưu tiên trọng tâm cần phải triển khai quyết liệt ngay từ đầu trên phạm vi toàn TCTD, không được coi đó là nhiệm vụ của bộ phận quản trị rủi ro, không được chủ quan, cần lường hết các khó khăn, thách thức, sử dụng nguồn lực hiệu quả và NHNN phối hợp chặt chẽ với NHTM xử lý kịp thời các vấn đề phát sinh, kể cả trường hợp không thực hiện đúng lộ trình như đã đề cập ở trên.

Một số nước trên thế giới đã bắt đầu nghiên cứu để áp dụng chuẩn mực Basell III, tại sao khuyến nghị về nâng cao năng lực quản trị rủi ro đã có từ rất lâu mà dường như Việt Nam “đi hơi chậm”?

Năm 2006, Ủy ban Basel lần đầu công bố chính thức Basel II và khuyến nghị các nước cần nghiên cứu thực tiễn của quốc gia khác để áp dụng một cách hợp lý Basel II. Thực tế, do đặc thù, điều kiện khách quan (khủng hoảng tài chính, điều kiện thực tiễn) và chủ quan (các cơ quan giám sát đủ năng lực để giám sát, phê duyệt, các ngân hàng không lường hết các thách thức…) của từng quốc gia nên tiến độ áp dụng Basel II của các nước là không giống nhau và các ngân hàng trong cùng một quốc gia cũng khác nhau.

Thực tế, việc triển khai thực hiện Basel II đòi hỏi sự đầu tư lớn về tài chính, nguồn nhân lực, hệ thống công nghệ thông tin, trong khi so với nhiều nước khác, hệ thống ngân hàng Việt Nam có xuất phát điểm thấp với hạn chế về tài chính, nhân lực, hệ thống công nghệ thông tin và khuôn khổ pháp lý (kế toán, tài sản bảo đảm…), các thị trường liên quan còn chưa đồng bộ thì việc áp dụng Basel II sẽ gặp khó khăn, thách thức. Do đó, mặc dù đã có sự chuẩn bị, nghiên cứu thực hiện Basel II trong thời gian dài, nhưng NHNN đã lựa chọn thời điểm hiện nay để triển khai vì có các điều kiện thuận lợi như:

- Sự chuyển biến tích cực về nhận thức của các ngân hàng về công tác quản lý rủi ro sau quá trình tái cơ cấu thời gian qua. Các cấp quản lý, điều hành của NHTM đã thấu hiểu sự cần thiết của việc bảo đảm đủ vốn đối với các rủi ro và việc xây dựng định hướng, chiến lược phát triển lành mạnh, bền vững của các ngân hàng đã tạo ra sự quyết tâm thực hiện Basel II trong toàn hệ thống TCTD.

- Quy mô, mức độ phức tạp trong hoạt động của các NHTM Việt Nam còn ở mức thấp so với các nước.

- Kinh tế vĩ mô đã đi vào ổn định, nhiều ngân hàng vượt qua được những khó khăn ngắn hạn, nâng cao năng lực tài chính và tăng cường khả năng sẵn sàng thực hiện Basel II.

- Đúc rút được các bài học kinh nghiệm trong việc thực hiện Basel II của các nước khác trong khu vực cũng như trên thế giới. Ngoài ra, các ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam đã triển khai Basel II nên NHNN nghiên cứu kinh nghiệm, kỹ thuật triển khai Basel II của các ngân hàng nước ngoài để áp dụng trong quá trình triển khai Basel II tại Việt Nam.

Chuẩn mực vốn Basel III được đưa ra trong bối cảnh các cuộc khủng hoảng tài chính diễn ra trên phạm vi toàn cầu trong những năm 2007 - 2010 để bổ sung cho Basel II khắc phục những hạn chế, chủ yếu về quản lý thanh khoản, yêu cầu vốn đệm theo chu kỳ của nền kinh tế, giới hạn tỷ lệ đòn bẩy vốn… với khuyến nghị lộ trình thực hiện vào năm 2015 - 2018 tùy theo điều kiện của từng quốc gia. Như vậy, Basel III chỉ là phần bổ sung cho Basel II nên NHNN đã nghiên cứu áp dụng có chọn lọc một số nội dung của Basel III phù hợp với thực tiễn của Việt Nam trong quá trình triển khai thực hiện Basel II, ví dụ: quy định về vốn tự có, tỷ lệ thanh khoản, quy định điều chỉnh tỷ lệ an toàn vốn theo từng thời kỳ.

Như vậy, với thời điểm, lộ trình, kế hoạch triển khai hợp lý và áp dụng có chọn lọc Basel III để phù hợp với bối cảnh và sự phát triển của hệ thống TCTD Việt Nam thì mặc dù vào thời điểm hiện nay, Việt Nam mới bắt đầu các bước để áp dụng Basel II, nhưng điều đó không có nghĩa Việt Nam “đi hơi chậm” so với các nước.

Tin bài liên quan