Những kết quả nổi bật
Thứ nhất, về công tác chỉ đạo, điều hành, hoàn thiện hành lang pháp lý
Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã xây dựng, trình Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 2545/QĐ-TTg phê duyệt Đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt (TTKDTM) giai đoạn 2016 - 2020; Quyết định số 241/QĐ-TTg phê duyệt Đề án đẩy mạnh thanh toán qua ngân hàng đối với các dịch vụ công (Quyết định 241/QĐ-TTg); Chỉ thị số 10/CT-TTg về tăng cường quản lý các hoạt động liên quan tới Bitcoin và các loại tiền ảo tương tự. Bên cạnh đó, NHNN đã ban hành kế hoạch xác định cụ thể các nhiệm vụ, lộ trình và trách nhiệm của các đơn vị liên quan trong ngành ngân hàng.
Ông Phạm Tiến Dũng, Vụ trưởng Vụ Thanh toán,Ngân hàng Nhà nước
Hành lang pháp lý về lĩnh vực thanh toán tiếp tục hoàn thiện, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển và sử dụng các phương tiện và dịch vụ thanh toán mới. Trong năm 2018, NHNN đã ban hành Thông tư sửa đổi, bổ sung về quy định mở và sử dụng tài khoản thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán; Thông tư quy định về giám sát các hệ thống thanh toán; Thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều của các Thông tư quy định về an toàn, bảo mật cho việc cung cấp dịch vụ ngân hàng trên Internet; Thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều của các Thông tư quy định về hoạt động thẻ ngân hàng; Thông tư sửa đổi, bổ sung một số điều của các Thông tư quy định về trang bị, quản lý, vận hành và đảm bảo an toàn hoạt động của máy giáo dịch tự động ATM...
Năm 2018 cũng là năm đánh dấu sự thành công trong việc nghiên cứu, ban hành các tiêu chuẩn kỹ thuật trong lĩnh vực thanh toán. Thống đốc NHNN đã ký Quyết định 1927/QĐ-NHNN ban hành Bộ tiêu chuẩn cơ sở về thẻ chip nội địa và Quyết định 1928/QĐ-NHNN ban hành tiêu chuẩn cơ sở “Đặc tả kỹ thuật QR Code”, làm cơ sở để các tổ chức áp dụng thống nhất một chuẩn chung thống nhất tại thị trường Việt Nam; qua đó tăng cường mức độ an toàn, bảo mật và gia tăng tiện ích, tăng cường trải nghiệm cho khách hàng sử dụng dịch vụ thanh toán.
Thứ hai, về phát triển cơ sở hạ tầng thanh toán
Cơ sở hạ tầng và công nghệ phục vụ TTKDTM, nhất là thanh toán điện tử, tiếp tục được chú trọng đầu tư, nâng cao chất lượng, phát huy hiệu quả, đáp ứng tốt hơn nhu cầu thanh toán ngày càng tăng của xã hội và thích ứng với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng được vận hành hoạt động an toàn, hiệu quả và thông suốt. Tính đến cuối tháng 12/2018, Hệ thống đã xử lý khoảng 137 triệu giao dịch, với giá trị đạt khoảng hơn 73 triệu tỷ đồng (ước tính giá trị giao dịch cao gấp 13 lần so với GDP Việt Nam năm 2018). Số lượng và giá trị giao dịch tăng tương ứng 25% và 24% so với năm 2017.
Hệ thống thanh toán bù trừ điện tử tự động phục vụ các giao dịch thanh toán bán lẻ (ACH) với khả năng thanh toán theo thời gian thực, hoạt động 24x7x365, xử lý giao dịch đa kênh, đa phương tiện đang trong giai đoạn thử nghiệm cuối cùng để đưa vào vận hành chính thức phục vụ nhu cầu chuyển tiền, giao dịch thanh toán bán lẻ, thanh toán các dịch vụ tiện ích.
Hệ thống ATM, POS tiếp tục được quan tâm đầu tư, nâng cao chất lượng; tính đến cuối tháng 12/2018, trên toàn quốc có khoảng 18.580 ATM và 243.120 POS. Tuy nhiên, nếu so với các nước trong khu vực, tỷ lệ số lượng máy ATM trên dân số của Việt Nam vẫn còn thấp (tỷ lệ ATM/100.000 người trưởng thành bình quân của khu vực ASEAN năm 2017 là 42,34 trong đó Việt Nam 24,44).
Thứ ba, về phát triển dịch vụ thanh toán
Việc mở và sử dụng tài khoản của cá nhân tiếp tục tăng lên; đến cuối năm 2018 đã đạt khoảng 79,7 triệu tài khoản cá nhân (tăng 15,3% so với cuối năm 2017). Phát triển dịch vụ tài khoản cá nhân góp phần thu hút vốn nhàn rỗi từ mọi tầng lớp dân cư và tạo điều kiện mở rộng dịch vụ TTKDTM.
Đến nay, đã có trên 76 tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán triển khai dịch vụ thanh toán qua Internet và 41 tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán qua điện thoại di động. Trong năm 2018, số lượng giao dịch qua kênh Internet là hơn 255 triệu giao dịch, với giá trị khoảng 16 triệu tỷ đồng (tăng tương ứng 33,6% và 19,5% so với năm 2017); số lượng giao dịch qua kênh điện thoại di động là hơn 185 triệu giao dịch, với giá trị khoảng 1,86 triệu tỷ đồng (tăng tương ứng 41% và 169% so với năm 2017). Theo đánh giá của PwC, trong các nền kinh tế mới nổi, thanh toán di động trong các cửa hàng đang tăng lên, trong đó Việt Nam có mức tăng lớn nhất là 61%.
Công nghệ thanh toán hiện đại chính là chìa khóa cho thanh toán không dùng tiền mặt
Các đơn vị đã nghiên cứu, ứng dụng nhiều công nghệ, giải pháp mới, hiện đại vào hoạt động thanh toán, với việc áp dụng xác thực sinh trắc học (xác thực vân tay, nhận diện khuôn mặt), sử dụng mã phản hồi nhanh (QR Code), số hóa thông tin thẻ (Tokenization), thanh toán phi tiếp xúc (Contactless payment), giải pháp sử dụng điện thoại thông minh làm thiết bị chấp nhận thanh toán (mPOS)... Những dịch vụ sử dụng công nghệ, giải pháp mới này đã nâng cao độ an toàn, bảo mật giao dịch đem lại sự tiện lợi, giảm chi phí, được người tiêu dùng và các đơn vị cung ứng hàng hóa, dịch vụ đón nhận tích cực.
Thanh toán bằng QR Code được nhiều ngân hàng, tổ chức trung gian thanh toán quan tâm xây dựng, triển khai gắn với đẩy mạnh thanh toán qua điện thoại di động hợp với xu thế phát triển trên thế giới và hành vi người tiêu dùng. Đến nay đã có khoảng 16 ngân hàng triển khai dịch vụ thanh toán QR Code, toàn thị trường có hơn 30.000 điểm chấp nhận thanh toán QR Code.
Dịch vụ thanh toán thẻ tiếp tục được các ngân hàng quan tâm phát triển. Đến cuối năm 2018, số lượng thẻ lưu hành đạt mức 97 triệu thẻ (tăng khoảng 8,3 % so với cuối năm 2017); số lượng giao dịch thanh toán nội địa qua thẻ ngân hàng trong năm 2018 đạt trên 292,2 triệu giao dịch với 592 nghìn tỷ đồng. Các ngân hàng thương mại đã tích hợp thêm nhiều tính năng vào thẻ ngân hàng để sử dụng thanh toán hàng hóa, dịch vụ; đồng thời, chất lượng dịch vụ thẻ cũng như độ an toàn trong thanh toán thẻ được các ngân hàng chú trọng và nâng cao.
NHNN đã xây dựng và tổ chức triển khai hiệu quả Kế hoạch phát triển thanh toán thẻ ngân hàng qua thiết bị chấp nhận thẻ giai đoạn 2017-2020; trong năm 2018, số lượng, giá trị giao dịch qua POS có mức tăng trưởng khá cao; số lượng giao dịch đạt gần 220 triệu với giá trị giao dịch đạt gần 458.000 tỷ đồng (tương ứng tăng 45,46% và 29,9% so với năm 2017).
Trong phát triển một số mô hình, dịch vụ thanh toán bán lẻ, NHNN đã phối hợp với các Bộ, ngành liên quan báo cáo Thủ tướng Chính phủ việc nghiên cứu, xử lý đề nghị triển khai thí điểm một số mô hình dịch vụ thanh toán mới như: mô hình dịch vụ tương tự mô hình ngân hàng thương mại giao đại lý cung ứng các dịch vụ thanh toán; mô hình hợp tác thanh toán với tổ chức trung gian thanh toán/ngân hàng nước ngoài phục vụ nhu cầu thanh toán của du khách nước ngoài đến Việt Nam; mô hình sử dụng hạ tầng viễn thông để thanh toán cho các dịch vụ khác có giá trị nhỏ (dịch vụ Moblie Money).
Triển khai Nghị quyết số 02/NQ-CP của Chính phủ về tiếp tục thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2019 và định hướng đến năm 2021 và Quyết định số 241/QĐ-TTg, các ngân hàng đã tích cực đầu tư cơ sở hạ tầng kỹ thuật, phối hợp với các đơn vị liên quan để thúc đẩy TTKDTM đối với dịch vụ công và bước đầu đạt được một số kết quả cụ thể như: đã có 50 ngân hàng thỏa thuận phối hợp thu thuế điện tử với cơ quan thuế, hải quan trên phạm vi 63 tỉnh, thành phố và tất cả các quận, huyện trên cả nước; 27 ngân hàng và 10 tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán phối hợp thu tiền điện; số người nhận các chế độ bảo hiểm xã hội, trợ cấp thất nghiệp qua tài khoản cá nhân chiếm khoảng 21% tổng số người hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội.
Các ngân hàng đã phát triển một số mô hình thanh toán mới, sử dụng các phương thức thanh toán hiện đại để thúc đẩy TTKDTM trên địa bàn nông thôn, vùng sâu, vùng xa, hải đảo.
Thứ tư, về giám sát các hệ thống thanh toán
NHNN thực hiện chức năng giám sát các hệ thống thanh toán theo quy định tại Luật Ngân hàng Nhà nước, Nghị định 101/2012/NĐ-CP về TTKDTM và Thông tư số 20/2018/TT-NHNN về giám sát các hệ thống thanh toán. Bên cạnh đó, NHNN cũng đã ban hành và triển khai Chiến lược giám sát các hệ thống thanh toán tại Việt Nam giai đoạn 2014-2020.
Hiện tại, NHNN đang thực hiện giám sát bằng phương thức trực tuyến và qua báo cáo định kỳ, báo cáo đột xuất của các tổ chức vận hành hệ thống nhằm nắm bắt thông tin kịp thời và có biện pháp phối hợp với các bên liên quan để xử lý các vụ việc mất an ninh, an toàn trong hoạt động thanh toán thẻ. NHNN cũng thực hiện giám sát đối với các tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán đã được cấp phép theo quy định của pháp luật.
Qua thống kê, đánh giá và so sánh với các nước trên thế giới có thể thấy rằng hoạt động thanh toán điện tử của Việt Nam hiện nay vẫn đảm bảo an toàn; số lượng, tỷ lệ sự cố và vụ việc gian lận xảy ra ở mức thấp. Tỷ lệ rủi ro qua thanh toán thẻ tại Việt Nam cũng khá thấp, chỉ bằng 1/3 so với tỷ lệ trung bình trên toàn thế giới.
Từ kết quả trên cho thấy, hoạt động TTKDTM trong thời gian qua đã có bước phát triển đáng ghi nhận; cơ sở hạ tầng và công nghệ được chú trọng đầu tư, nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả; công tác đảm bảo an ninh, an toàn hệ thống TTKDTM được coi trọng và tăng cường; các dịch vụ, phương tiện thanh toán điện tử được phát triển mạnh và đa dạng với nhiều sản phẩm, phương tiện mới, đáp ứng nhu cầu thanh toán trong nền kinh tế.
Những giải pháp thúc đẩy TTKDTM
Một là, tiếp tục hoàn thiện hành lang pháp lý, xây dựng cơ chế, chính sách phát triển TTKDTM như: nghiên cứu, xây dựng Nghị định thay thế Nghị định về TTKDTM và Nghị định sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định về thanh toán bằng tiền mặt; trình Thủ tướng Chính phủ Đề án xây dựng cơ chế quản lý thử nghiệm (Regulatory Sandbox) cho hoạt động công nghệ tài chính (FinTech) trong lĩnh vực ngân hàng..
Hai là, tiếp tục triển khai có hiệu quả Đề án phát triển TTKDTM tại Việt Nam giai đoạn 2016-2020 theo Quyết định 2545/QĐ-TTg và Đề án đẩy mạnh thanh toán qua ngân hàng đối với việc thu phí các dịch vụ công như điện, nước, học phí, viện phí và chi trả các chương trình an sinh xã hội theo Quyết định 241/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ.
Ba là, nâng cấp hạ tầng thanh toán quốc gia (hệ thống Thanh toán điện tử liên ngân hàng); chỉ đạo triển khai và sớm đưa vào vận hành Hệ thống thanh toán bù trừ tự động phục vụ các giao dịch bán lẻ (ACH), qua đó thiết lập hạ tầng thanh toán bán lẻ hiện đại, hoạt động hiệu quả, liên tục, đáp ứng nhu cầu thanh toán nhanh chóng, an toàn, thuận tiện với chi phí hợp lý của người dân và doanh nghiệp.
Bốn là, đẩy mạnh thanh toán thẻ qua các thiết bị chấp nhận thẻ tại điểm bán (POS); áp dụng các công nghệ, phương thức thanh toán hiện đại như mã phản hồi nhanh (QR code), mã hóa thông tin thẻ (Tokenization), thanh toán di động (mobile payment), thanh toán phi tiếp xúc (contactless)...
Năm là, triển khai các mô hình thanh toán tại khu vực nông thôn, vùng sâu, vùng xa gắn với việc xây dựng và triển khai Chiến lược Quốc gia về Tài chính Toàn diện tại Việt Nam; Thúc đẩy thanh toán điện tử trong khu vực Chính phủ.
Sáu là, giám sát các hệ thống thanh toán đảm bảo hoạt động an toàn, hiệu quả; tăng cường công tác đảm bảo an ninh, an toàn trong thanh toán điện tử; giám sát hoạt động các tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán đảm bảo hoạt động đúng quy định.
Bảy là, đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền về TTKDTM, giáo dục tài chính; tăng cường các biện pháp bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng, đồng thời nâng cao chất lượng, hiệu quả dịch vụ thanh toán.