Ảnh Internet

Ảnh Internet

Tăng hạn mức bảo hiểm để bảo vệ người gửi tiền tốt hơn

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK) Hạn mức dự kiến là 125 triệu đồng đã được Phó Thống đốc thường trực Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) Đào Minh Tú thông tin với báo chí theo nội dung Dự thảo Quyết định của Thủ tướng về hạn mức bảo hiểm tiền gửi công bố mới đây.

Tăng hạn mức Bảo hiểm tiền gửi là tất yếu

Theo quy định tại Luật Bảo hiểm tiền gửi, hạn mức trả tiền bảo hiểm là số tiền tối đa mà tổ chức Bảo hiểm tiền gửi trả cho tất cả các khoản tiền gửi được bảo hiểm của một người tại một tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi khi phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm.

Mặc dù đã trải qua hai lần điều chỉnh vào năm 2005 và 2017, nhưng nhiều ý kiến cho rằng, mức bảo hiểm tiền gửi 75 triệu đồng hiện nay vẫn còn thấp và không còn phù hợp với tình hình phát triển kinh tế - xã hội, quy mô của hệ thống các tổ chức tín dụng cũng như nguyện vọng của người dân.

Theo Phó Thống đốc thường trực NHNN Đào Minh Tú, việc điều chỉnh tăng hạn mức bảo hiểm tiền gửi là cần thiết để bảo vệ tốt hơn cho người gửi tiền theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế, qua đó góp phần củng cố niềm tin của người dân đối với hệ thống các tổ chức tín dụng, từ đó tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng hoạt động an toàn, hiệu quả hơn trong bối cảnh hiện nay.

Hiệp hội Bảo hiểm tiền gửi Quốc tế (IADI) khuyến nghị, hạn mức bảo hiểm tiền gửi nên có giới hạn, đáng tin cậy và bảo vệ được 90 - 95% người gửi tiền. Tuy nhiên, tỷ lệ này ở Việt Nam đang là 87,72%, thấp hơn so với mức khuyến nghị của IADI.

“Hạn mức 75 triệu đồng hiện nay chỉ bằng 1,25 lần GDP bình quân đầu người năm 2019, thấp hơn nhiều so với mức 2 lần theo thông lệ quốc tế. Do đó, nếu nâng mức bảo hiểm tiền gửi lên 125 triệu đồng, gấp 2 lần GDP bình quân đầu người thì tỷ lệ này mới tăng lên mức 90,94%, nằm trong khoảng khuyến nghị của IADI” - Phó Thống đốc Đào Minh Tú nhấn mạnh.

Bên cạnh đó, năng lực tài chính của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam cũng gia tang đáng kể. Từ nguồn vốn ban đầu được cấp 1.000 tỷ đồng, nhờ tích lũy, quản lý và đầu tư bài bản, đến nay, tổng tài sản của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam đã đạt hơn 64.000 tỷ đồng, trong đó quỹ dự phòng nghiệp vụ đạt 58.000 tỷ đồng.

Đây là nguồn lực tài chính đáng kể, giúp Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam luôn sẵn sàng chi trả khi cần thiết và là tiền đề để Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam tham gia có hiệu quả vào quá trình tái cơ cấu hệ thống các tổ chức tín dụng thông qua hoạt động hỗ trợ tài chính.

“Với triển vọng tăng trưởng tích cực trong trung hạn của Việt Nam và sự gia tăng đáng kể về năng lực tài chính Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, việc điều chỉnh tăng hạn mức bảo hiểm tiền gửi là hoàn toàn khả thi và cần thiết”, ông Tú nêu rõ.

Hạn mức 125 triệu đồng là phù hợp

Phó Thống đốc Đào Minh Tú cho biết, triển khai Đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng giai đoạn 2011-2015 và 2016-2020, thời gian qua, NHNN và các cấp, các ngành đã tập trung chỉ đạo quyết liệt công tác tái cơ cấu, xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng.

Nhờ đó, hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng đã từng bước được củng cố, chấn chỉnh và hoạt động an toàn, hiệu quả, trong đó các ngân hàng thương mại có xu hướng tăng trưởng và phát triển ổn định hơn.

Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, hoạt động của hệ thống quỹ tín dụng nhân dân vẫn còn nhiều khó khăn và tồn tại, hạn chế. Thực trạng này đặt ra yêu cầu cấp bách về tăng cường hiệu quả quản lý, kiểm tra, giám sát và xử lý các tổ chức, cá nhân vi phạm pháp luật của các cơ quan quản lý nhà nước, chính quyền địa phương; cũng như nâng cao hơn nữa vai trò của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam trong việc bảo vệ người gửi tiền tại các quỹ tín dụng nhân dân - đối tượng dễ bị tổn thương khi xảy ra sự cố tại các Quỹ.

Theo Phó Thống đốc Đào Minh Tú, nếu nâng hạn mức bảo hiểm tiền gửi lên mức 125 triệu đồng, tương đương 2 lần GDP bình quân đầu người thì quỹ dự phòng nghiệp vụ của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam có đủ khả năng để đảm bảo chi trả tiền gửi cho 100% quỹ tín dụng nhân dân.

Hạn mức này cũng phù hợp với thông lệ, chuẩn mức quốc tế, điều kiện phát triển kinh tế xã hội của Việt Nam trong thời gian tới cũng như thực tế hoạt động của hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam.

Tin bài liên quan