Các bị cáo nghe tuyên án

Các bị cáo nghe tuyên án

Y án 30 năm tù giam với “bầu” Kiên

(ĐTCK) Chiều nay, sau 10 ngày xét xử, Hội đồng xét xử phúc thẩm đã tuyên án vụ án Nguyễn Đức Kiên và các đồng phạm. Trước đó, vào lúc 14h, Hội đồng Xét xử đã công bố tội danh của Nguyễn Đức Kiên và đồng phạm.

16h10, tòa tuyên án (tiếp), các bản án cụ thể

1. Nguyễn Đức Kiên (SN 1964, trú tại Ba Đình, Hà Nội), nguyên Phó chủ tịch Hội đồng sáng lập ACB phạm tội Kinh doanh trái phép, Trốn thuế, Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, Cố ý làm trái quy định

Xử phạt 20 tháng tù về tội Kinh doanh trái phép, 6 năm 6 tháng về tội Trốn thuế, 20 năm tù về tội Lừa đảo, 18 năm tù về tội Cố ý làm trái quy định.

Tổng cộng hình phạt là 30 năm tù giam

Hình phạt bổ sung: Phạt số tiền trốn thuế là 75 tỷ đồng, 100 triệu đồng vì tội Lừa đảo sung công quỹ Nhà nước.

2. Lê Vũ Kỳ (SN 1956, trú tại Ba Đình, Hà Nội), nguyên Phó chủ tịch HĐQT ACB phạm tội Cố ý làm trái. Xử phạt 4 năm tù giam. (Án sơ thẩm là 5 năm tù giam)

3. Trịnh Kim Quang (SN 1954, trú tại quận 3, TP. HCM); nguyên Phó chủ tịch HĐQT ACB, phạm tội Cố ý làm trái. Xử phạt 4 năm tù giam.

4. Phạm Trung Cang, (SN 1954, trú tại quận 3, TP. HCM); nguyên Phó chủ tịch HĐQT Ngân hàng ACB, phạm tội Cố ý làm trái. Xử phạt 3 năm tù giam.

5. Lý Xuân Hải (SN 1965, trú tại quận 10, TP. HCM); nguyên Tổng giám đốc ACB, phạm tội Cố ý làm trái. Xử phạt 8 năm tù giam.

6. Huỳnh Quang Tuấn (SN 1958, trú tại Đống Đa, Hà Nội), nguyên thành viên HĐQT Ngân hàng ACB, phạm tội Cố ý làm trái. Xử phạt 2 năm tù.

Các bị cáo Nguyễn Đức Kiên, Lê Vũ Kỳ, Lý Xuân Hải, Trịnh Kim Quang, Phạm Trung Cang, Huỳn Quang Tuấn đều bị cấm đảm nhiệm các chức vụ liên quan hoạt động ngân hàng trong 5 năm kể từ khi hết hạn tù.

Buộc Công ty B&B truy thu 25 tỷ đồng tiền thuế TNDN nộp ngân sách Nhà nước.

Y án 30 năm tù giam với “bầu” Kiên ảnh 1

Chủ tọa phiên tòa công bố bản án phúc thẩm 

Trước đó, vào lúc 14h, tòa bắt đầu tuyên án

Chủ tọa điểm lại diễn biến quá trình thẩm vấn, tranh tụng tại phiên phúc thẩm. Theo đó, bị cáo Kiên phủ nhận quy kết của cấp sơ thẩm, cho rằng không phạm tội Kinh doanh trái phép, khai không có quy định pháp luật nào nêu kinh doanh vàng trạng thái phải đăng ký.

Sau khi vụ án được đưa ra xét xử sơ thẩm vào tháng 5 - 6/2014, có 6 trong số 8 bị cáo đã có đơn kháng cáo kêu oan, trong đó bị cáo Lê Vũ Kỳ nhận tội và xin giảm nhẹ hình phạt. Hai bị cáo là đồng phạm với Nguyễn Đức Kiên ở tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản không chống án.

Quá trình xét xử phúc thẩm, có thêm 3 bị cáo nguyên là lãnh đạo Ngân hàng ACB gồm Phạm Trung Cang, Trịnh Kim Quang, Huỳnh Quang Tuấn đã thay đổi nhận thức, xin giảm nhẹ hình phạt.

Hội đồng xét xử nhận thấy bị cáo Kiên kêu oan với cả 4 tội, bị cáo Lý Xuân Hải kêu oan tội Cố ý làm trái quy định, 4 bị cáo gồm Lê Vũ Kỳ, Trịnh Kim Quang, Phạm Trung Cang, Huỳnh Quang Tuấn xin giảm nhẹ hình phạt.

Với các kháng cáo này, Hội đồng xét xử sẽ đi sâu, phân tích làm rõ hành vi của các bị cáo.

Cụ thể, tội Kinh doanh trái phép, cơ quan công tố cáo buộc Kiên đã tổ chức kinh doanh không đúng với giấy phép khi mua bán cổ phần, cổ phiếu, vàng thông qua 6 pháp nhân do mình thành lập với tổng số tiền hơn 21.000 tỷ đồng

Tòa cấp sơ thẩm nhân thấy Công ty Thiên Nam không đăng ký ngành nghề kinh doanh vàng vật chất và vàng trạng thái nhưng vẫn ký văn bản thỏa thuận để thay thế Vietbank thực hiện hợp đồng ủy thác đầu tư vàng trạng thái trên tài khoản ở nước ngoài.

Các công ty khác do Nguyễn Đức Kiên thành lập, làm Chủ tịch HĐQT/HĐTV không được cấp phép kinh doanh ngành nghề: “hoạt động đầu tư tài chính”; “kinh doanh tài chính khác”; “mua bán cổ phần, cổ phiếu của doanh nghiệp và ngân hàng” nhưng vẫn thực hiện việc góp vốn, mua bán cổ phần, cổ phiếu.

Do đó, có đủ căn cứ kết luận Nguyễn Đức Kiên phạm tội Kinh doanh trái phép.

Về tội “Trốn thuế”, cơ quan công tố cáo buộc Nguyễn Đức Kiên, thông qua ký hợp đồng ủy thác kinh doanh vàng tài khoản với em gái là bà Nguyễn Thúy Hương vào tháng 12/2008, để trốn tránh nghĩa vụ nộp 25 tỷ đồng tiền thuế.

Tòa cấp sơ thẩm nhận định, hợp đồng ủy thác giữa Công ty Thương mại B&B  là không hợp pháp, chỉ là hình thức, hợp đồng khống nhằm mục đích chuyển toàn bộ lợi nhuận thu được từ kinh doanh vàng cho cá nhân Nguyễn Thúy Hương. Người thực hiện, chỉ đạo mọi hoạt động kinh doanh vàng là Nguyễn Đức Kiên, đại diện cho Công ty B&B.

Cơ quan thuế cho biết trong năm 2009 và 2010, Công ty B&B kinh doanh có lãi và đã nộp thuế. Số thuế còn lại là số thuế doanh nghiệp không kê khai từ việc kinh doanh vàng trạng thái.

Do đó, có đủ căn cứ kết luận Nguyễn Đức Kiên phạm tội trốn thuế.

Về tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản, cơ quan công tố cáo buộc ông Nguyễn Đức Kiên đã có hành vi lừa dối, sử dụng 20 triệu CP của Thép Hòa Phát đang thế chấp tại Ngân hàng ACB để bán cho Công ty TNHH MTV Thép Hòa Phát lấy 264 tỷ đồng. Sau đó, không chuyển giao CP.

Hai nhân viên của Nguyễn Đức Kiên là Trần Ngọc Thanh, nguyên Giám đốc Công ty ACBI và Trần Thị Hải Yến, nguyên Kế toán trưởng Công ty ACBI đóng vai trò đồng phạm giúp sức.

Tòa cấp sơ thẩm nhận định, lời khai từ phía Thép Hòa Phát khẳng định không hề biết việc CP đã bị thế chấp tại Ngân hàng ACB, cũng không có việc hoán đổi CP, nếu có giao dịch khác thì độc lập với giao dịch này. Lời khai này phù hợp với nội dung của hợp đồng chuyển nhượng, không có nội dung hoán đổi CP.

Nguyễn Đức Kiên khai có tài sản nhiều nghìn tỷ, không có ý định chiếm đoạt. Tòa cấp sơ thẩm nhận thấy sau khi nhận tiền từ Thép Hòa Phát, Kiên chỉ đạo 2 nhân viên sử dụng vào các mục đích khác nhau, không có tác động nào đến ACB và CTCK ACBS để giải chấp số CP. Điều này càng thể hiện ý thức chiếm đoạt của bị cáo.

Về tội Cố ý làm trái quy đinh, Nguyễn Đức Kiên và 5 cựu lãnh đạo của ACB gồm Lý Xuân Hải, Lê Vũ Kỳ, Trịnh Kim Quang, Huỳnh Quang Tuấn, Phạm Trung Cang bị quy kết có hành vi làm trái các quy định về quản lý kinh tế gây hậu quả nghiêm trọng.

Thứ nhất là hành vi ủy thác cho nhân viên Ngân hàng ACB gửi tiền vào Vietinbank gây thiệt hại 718 tỷ đồng. Nguyễn Đức Kiên cho rằng việc ủy thác cho cá nhân gửi tiền vào thời điểm 22/3/2010 pháp luật không cấm, không gây thiệt hại cho ACB nên bị cáo không phạm tội.

Tòa cấp sơ thẩm cho rằng các ngân hàng chỉ được thực hiện các hoạt động kinh doanh ngân hàng và hoạt động kinh doanh khác được quy định cụ thể trong Luật tổ chức tín dụng. Theo đó, không có hoạt động ủy thác cho các cá nhân đi gửi tiền tại ngân hàng khác.

Về hoạt động ủy thác, trước khi Luật tổ chức tín dụng 2010 có hiệu lực thì ngân hàng không được phép ủy thác cho cá nhân đi gửi tiền. Sau khi luật này có hiệu lực thì việc ủy thác gửi tiền nhất thiết phải có hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước.

Thứ hai là hành vi đầu tư CP ACB gây thiệt hại số tiền 687 tỷ đồng. Các bị cáo đã tham gia cuộc họp và chủ trương đầu tư một số CP trong đó có CP ACB.

Việc CTCK ACBS đầu tư CP ACB là trái với quy định tại Quyết định 27/2007/QĐ-BTC, theo đó, các CTCK không được phép đầu tư vào CP hoặc phần vốn góp của công ty mẹ. Trong khi đó ACB lại sở hữu 100% vốn điều lệ của ACBS.

Nguồn tiền mua CP của chính mình được Ngân hàng ACB luân chuyển như sau: ACB cho KienLongBank vay 1.000 tỷ đồng, cho VietBank vay 500 tỷ đồng liên ngân hàng với lãi suất thấp. Hai ngân hàng lại co ACBS vay lại 1.500 tỷ đồng qua hình thức mua trái phiếu ACBS với lãi suất cao hơn. Sau đó ACBS chuyển 1.500 tỷ đồng nêu trên sang hai công ty ACI và ACI – Hà Nội để mua 51,7 triệu CP của ACB thông qua hình thức hợp tác đầu tư.

Tòa cấp sơ thẩm nhận định có căn cứ để kết luận các bị cáo phạm tội Cố ý làm trái.

Bị cáo Kiên kêu oan với cả 4 tội, bị cáo Lý Xuân Hải kêu oan tội Cố ý làm trái quy định, 4 bị cáo gồm Lê Vũ Kỳ, Trịnh Kim Quang, Phạm Trung Cang, Huỳnh Quang Tuấn xin giảm nhẹ hình phạt.

Với các kháng cáo này, Hội đồng xét xử sẽ đi sâu, phân tích làm rõ hành vi của các bị cáo.

Hành vi Kinh doanh trái phép

Vào thời điểm xảy ra vụ án Nhà nước luôn khuyến khích các cá nhân tham gia sản xuất kinh doanh các ngành nghề pháp luật cho phép, nhưng phải kinh doanh đúng với các ngành nghề trên Giấy chứng nhạn đăng ký kinh doanh. Nếu muốn kinh doanh thêm ngành nghề mới thì phải đăng ký thêm. Mọi trường hợp kinh doanh ngoài các ngành nghề trên giấy chứng nhận đều là kinh doanh trái phép. 

Việc thành lập 6 công ty liên quan hành vi Kinh doanh trái phép, Hội đồng xét xử phúc thẩm xác định các công ty này thành lập hợp pháp, có giấy Chứng nhận đăng ký kinh doanh do đó có cơ sở chấp nhận quan điểm của bị cáo Kiên cho rằng các công ty thành lâp hợp pháp. Nhưng các công ty này đã thực hiện hoạt động kinh doanh không đăng ký mã ngành theo quy định.

Tại Công ty Thiên Nam, có thay đổi người đại diện theo pháp luật, nhưng không làm thủ tục đăng ký lại. Theo Luật Doanh nghiệp, khi thay đổi người đại diện theo pháp luật thì phải làm thủ tục thay đổi. Do đó, Công ty Thiên Nam có vi phạm.

Bị cáo Kiên cho rằng vàng là hàng hóa và Thiên Nam có đăng ký kinh doanh vàng. Hội đồng xét xử thấy rằng cần đi sâu phân tích nội dung bản chất hợp đồng giao dịch trạng thái vàng giữa ACB và Thiên Nam.

Ý kiến bị cáo Kiên cho rằng, Công ty Thiên Nam được kinh doanh vàng theo giấy đăng ký kinh doanh là không có căn cứ chấp nhận.

Tại phiên tòa đã làm rõ, việc bị cáo Kiên cho rằng, việc mua bán giá vàng không liên quan hoạt động kinh doanh vàng trên tài khoản là không đúng. Tại phiên tòa, nội dụng hợp đồng được công bố cho thấy, các bên có thể thỏa thuận quy đổi trạng thái vàng thành vàng nguyên liệu hoặc vàng vật chất. Đây chính là giao dịch kinh doanh vàng trên tài khoản nước ngoài, đã phủ định toàn bộ quan điểm của các bị cáo.

Các phiếu xác nhận lệnh mua bán vàng theo đơn vị ounce thể hiện nội dung giao dịch chính là mua bán vàng trên tài khoản nước ngoài.

Hợp đồng còn có điều khoản Bên B (Ngân hàng ACB) được thu phí của Công ty Thiên Nam. Nếu là mua bán hàng hóa, thuế và chi phí được xác định trong cơ cấu giá bán/mua chứ không có khoản phí nằm ngoài giá mua/bán. Nội dung thỏa thuận này bản chất chính là Ngân hàng ACB làm trung gian thực hiện thỏa huận để Công ty Thiên Nam mua bán vàng với nước ngoài.

Công ty Thiên Nam không làm thủ tục thay đổi đăng kinh kinh doanh Luật Doanh nghiệp và không có chức năng kinh doanh vàng là hoạt động kinh doanh trái phép.

Bị cáo Kiên là người thực hiện các lệnh giao dịch trên hệ thống ghi âm điện thoại của Ngân hàng ACB. Sau đó, mới có việc hoàn thiện các phiếu lệnh.

Hành vi Trốn thuế 25 tỷ đồng

Các lời khai của bị cáo và những người có liên quan đều thừa nhận ngày 25/12/2008 đã ký 3 văn bản gồm hợp đồng giữa ACB và Công ty B&B; hợp đồng giữa Công ty B&B và bà Nguyễn Thúy Hương (em gái Kiên) về kinh doanh vàng ghi sở và phụ lục hợp đồng.

Bị cáo Kiên cho rằng, việc ký các hợp đồng là hợp pháp. Xét phụ lục hợp đồng có nội dung bà Hương ủy quyền cho Kiên, là người đại diện theo pháp luật cho Công ty B&B, làm đại diện cho bà Hương thực hiện hợp đồng với Công ty B&B là không thể chấp nhận. Việc ủy quyền gây ra xung đột lợi ích. Đồng thời vi phạm phạm vi ủy quyền.

Hội đồng xét xử xác định bị cáo Kiên vi phạm pháp luật về ủy quyền, hợp đồng giữa Công ty B&B và bà Hương; phụ lục hợp đồng được xác định là vô hiệu.

Xét hành vi trốn thuế, Hội đồng xét xử xác định bị cáo Kiên và Công ty Thiên Nam đã sử dụng chứng từ không hợp pháp để xác định sai số thuế phải nộp.

Bị cáo Kiên và các luật sư cho rằng kết luậ giám định không đúng vì tài liệu không đầy đủ, không tính mối quan hệ với thuế TNDN trong cả năm 2009, chưa tính chính sách miễn giảm thuế đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ và chưa tính khoản trích lập dự phòng.

Giám định viên tư pháp đã giải thích rõ Công ty B&B không thuộc diện được miễn giảm thuế, không được trích lập dự phòng theo quy định về thuế và kế toán. Việc xác định số thuế thuộc thẩm quyền cơ quan tiến hành tố tụng.

Hội đồng xét xử chấp nhận nội dung kháng cáo của Công ty B&B và bị cáo Kiên khi xem xét về số tiền thuế.

Xét hành vi của bị cáo Kiên trong việc sử dụng chứng từ không hợp pháp để kê khai thuế, bản án sơ thẩm tuyên phạt bị cáo 6 năm 6 tháng là tương xứng nhưng cần xem xét điều chỉnh số tiền cho phù hợp ở hình phạt bổ sung.

Về hành vi Lừa đảo chiếm đoạt tài sản số tiền 264 tỷ đồng:

Hội đồng xét xử nhận thấy cấp sơ thẩm quy kết bị cáo Nguyễn Đức Kiên phạm tội Lừa đảo chiếm đoạt tài sản là đúng người, đúng tội và không oan. Bị cáo Kiên kháng cáo cho rằng, không có ý thức chiếm đoạt, đã kịp thời chỉ đạo ACBI không sử dụng số tiền 53 tỷ đồng còn lại… Hội đồng xét xử cho rằng, bị cáo Kiên đã chỉ đạo Công ty ACBI đã bán cổ phần cho Công ty TNHH MTV Thép Hòa Phát trong khi biết rõ số cổ phần này chưa được giải chấp và có kế hoạch sử dụng ngay số tiền 264 tỷ đồng khi được chuyển vào tài khoản.

Số tiền này chỉ được ACBI nộp lại khi đã khởi tố vụ án.

Bị cáo Kiên cho rằng, đây là cổ phần bút toán ghi sổ, thực tế 20 triệu cổ phần vẫn thuộc quản lý của CTCP Thép hòa Phát. Ngày 21/5, CTCP Thép Hòa Phát đã ghi nhận trên sổ cổ đông cho Công ty TNHH MTV Thép Hòa Phát và đăng ký với Sở Kế hoạch và Đầu tư Hải Dương. Hội đồng xét xử cho rằng, việc chuyển sổ cổ đông càng chứng tỏ Công ty TNHH MTV Thép Hòa Phát không biết việc 20 triệu cổ phần trên đã bị thế chấp.

Mức hình phạt 20 năm tù áp dụng với bị cáo là tương xứng với tính chất, mức độ hành vi phạm tội của bị cáo.

Hội đồng xét xử nhận thấy bị cáo Kiên kêu oan với cả 4 tội, bị cáo Lý Xuân Hải kêu oan tội Cố ý làm trái quy định, 4 bị cáo gồm Lê Vũ Kỳ, Trịnh Kim Quang, Phạm Trung Cang, Huỳnh Quang Tuấn xin giảm nhẹ hình phạt.

Với các kháng cáo này, Hội đồng xét xử sẽ đi sâu, phân tích làm rõ hành vi của các bị cáo.

Trước đó, tại bản án sơ thẩm, Hội đồng xét xử đã căn cứ vào lời khai của các bị cáo, lời khai của những người có liên quan cùng với tài liệu chứng cứ trong vụ án tuyên bố các bị cáo phạm tội. Trong đó Nguyễn Đức Kiên bị tuyên phạt tổng hợp hình phạt là 30 năm tù giam, các bị cáo khác bị tuyên phạt từ 2 - 8 năm tù giam.

Tin bài liên quan