Tại Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam diễn ra tuần cuối tháng 6, đại diện Amcham đặt vấn đề, Việt Nam không nên giới hạn tỷ lệ sở hữu của các nhà đầu tư nước ngoài tại ngân hàng và công ty FinTech là 30%, trong đó mức cao nhất dành cho các tổ chức là 20%. Theo lý giải của khối ngoại, đây là tỷ lệ thấp nhất áp dụng với các nhà băng tính trong khu vực.
Xét về tỷ lệ sở hữu, 30% hay thấp hơn là 20%, thực tế không có giá trị về mặt quản trị với các ngân hàng ngoại khi rót vốn vào ngân hàng Việt, bởi nó không cho phép các nhà băng ngoại có trọng lượng trong các quyết định quan trọng của ngân hàng. Theo các quy định của pháp luật Việt Nam, tỷ lệ tối thiểu 36% mới cho phép các nhà đầu tư phủ quyết các vấn đề quan trọng của doanh nghiệp.
Việc tăng giới hạn tỷ lệ sở hữu nước ngoài lên 40%, thậm chí hơn nữa được cộng đồng nhà đầu tư quốc tế cho rằng phù hợp với bối cảnh thị trường hội nhập toàn cầu, đặc biệt là tại Việt Nam, khi đã có những ngân hàng 100% vốn nước ngoài được cấp phép hoạt động.
Ðiều này càng có ý nghĩa quan trọng trong bối cảnh các ngân hàng Việt buộc phải gia tăng năng lực cạnh tranh trong môi trường hội nhập quốc tế, so sánh với các ngân hàng khu vực. Các số liệu thống kê cho thấy, tính đến đầu năm 2019, tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu (CAR) của toàn hệ thống đứng ở mức 12%, trong đó khối ngân hàng thương mại nhà nước chỉ đạt trung bình 9%.
Con số này thuộc nhóm thấp nhất nếu so sánh với các ngân hàng trong khu vực như Malaysia, Indonesia, Phillipines..., chưa nói đến các định chế tài chính thuộc các nền kinh tế như Singapore, Hồng Kông...
Nếu không có thêm nguồn vốn ngoại tham gia đầu tư, ngân hàng Việt chỉ quẩn quanh với nguồn vốn tăng thêm từ cổ tức để lại, phát hành trái phiếu, tăng vốn cho cổ đông hiện hữu (các ngân hàng có vốn nhà nước chi phối rất khó thực hiện tăng vốn từ cổ đông hiện hữu vì nhà nước thiếu nguồn lực đầu tư thêm).
Cũng có những ý kiến e ngại rằng, khi nhà đầu tư ngoại nắm quyền chi phối có thể ra những quyết định phục vụ lợi ích ngắn hạn của nhà đầu tư, thay vì suy xét trên bức tranh lớn của cả ngành và nền kinh tế. Tuy nhiên, giới chuyên gia cho rằng, là ngành đặc biệt, cơ quan quản lý nhà nước, mà ở đây là Ngân hàng Nhà nước có nhiều công cụ mềm khác để quản trị và quản lý các ngân hàng. Do đó, đây không phải là vấn đề đáng quan ngại.
Thời gian để các ngân hàng Việt buộc phải thực thi Basel II không còn nhiều (năm 2020). Chỉ có thực thi Basel II, các ngân hàng Việt mới nâng chuẩn của mình lên tầm quốc tế, tạo nền tảng tốt phục vụ khách hàng, tiếp cận thị trường vốn toàn cầu một cách dễ dàng, với chi phí thấp và tăng mức độ tin cậy của các định chế tài chính đa quốc gia, các nhà đầu tư, tổ chức quốc tế với Việt Nam.
Hội nhập bắt buộc các định chế tài chính phải có tư duy cạnh tranh tầm khu vực, nếu không sẽ sớm tụt hậu. Bởi vậy, câu chuyện ngân hàng nội có cần thêm các trợ lực ngoại một lần nữa lại làm dấy lên các cuộc tranh luận và cần sớm có lời giải.