Ngoài chinh phục nóc nhà Đông Dương ở độ cao 3.143 m, nhiều đoàn leo núi còn lựa chọn các đỉnh cao khác ở tỉnh Lào Cai, Lai Châu như Pu Ta Leng (3.096 m), Pusilung (3.083 m) hay Bạch Mộc Lương Tử (3.046 m).
Bạch Mộc Lương Tử còn có tên là Đỉnh Kỳ Quan San, thuộc địa phận xã Sàng Ma Sáo, huyện Bát Xát, Lào Cai, được cho là cao thứ 4 Việt Nam và khó tiếp cận hơn so với đỉnh Fansipan.
Nhóm porter người Mông do anh Sòng A Trư (giữa) làm trưởng nhóm bắt đầu gùi đồ cho khách từ năm 2002, chủ yếu phục vụ các đoàn khách chinh phục đỉnh Bạch Mộc Lương Tử. Các thành viên trong nhóm đến từ nhiều xã ở Lào Cai, trong bán kính khoảng 70 km tính từ xã Sàng Ma Sáo, điểm bắt đầu hành trình lên đỉnh Bạch Mộc Lương Tử.
Anh Sòng A Trư (giữa)
Sòng A Trư cho biết thời gian đầu mỗi năm chỉ có một đoàn leo núi tới đây nhưng lượng khách tăng dần từ năm 2008 và đông nhất sau năm 2016, khi tuyến cáp treo Fansipan hoàn thành.
Mùa leo núi thường kéo dài từ tháng 9 đến hết tháng 4 năm sau. Mỗi tháng anh Trư kiếm được 3-4 triệu đồng, nhiều nhất có thể đến 8 triệu đồng nếu vợ làm cùng. Ngoài thời gian này, cả nhóm lại quay về làm nông nghiệp, buôn bán nhỏ hoặc tham gia tour dẫn khách tham quan ở Sa Pa.
Công việc chính của một porter là gùi đồ cho khách, bên cạnh đó mỗi người còn được phân công dẫn đường, chốt đoàn, giúp đỡ khách trong các tình huống cụ thể.
Một chuyến chinh phục Kỳ Quan San dài khoảng 3 ngày, mỗi porter sẽ được trả một triệu đồng tiền công hỗ trợ nhóm khách từ 4 đến 5 người. Các porter có thể gùi được khoảng 20 kg hành lý, khách muốn gửi thêm đồ có thể thương lượng về tiền công, tăng tối đa 10 -15 kg.
Những trang bị bắt buộc phải có gồm gùi, dao găm, đèn pin, áo mưa và balo đựng áo ấm, đồ y tế... Theo anh Má A Vàng, porter có 10 năm kinh nghiệm trong nhóm, những rủi ro lớn nhất trong nghề là khách đi lạc, bị ốm, rắn rết cắn và gặp chấn thương không đi lại được. Thi thoảng khách đi lạc vì không nghe theo hướng dẫn, các porter sẽ hú lên để tìm.
Mỗi năm anh Vàng cùng những porter khác phải cõng khách xuống núi khoảng 3 - 4 lần do bị ốm hoặc gặp chấn thương. Nếu khách quá yếu họ sẽ dùng dây buộc khách vào người. Đây cũng là tình huống khiến các porter e ngại nhất vì họ phải rất vất vả để đưa khách xuống từ những con đường mòn và vách đá cheo leo.
Anh Lý A Tủa gia cố lại bao tải đựng đồ của khách trước khi lên đường. Ngoài chiếc gùi, các porter còn có một dụng cụ làm bằng gỗ, có hình dáng như chiếc cáng với quai đeo hai bên vai tự chế để buộc đồ, trong tiếng Mông gọi là cái “ca chủa” hoặc “trang khi”. Anh Tủa chia sẻ, công việc này với anh không có gì vất vả vì anh đã quen gùi ngô, sắn lên xuống những ngọn núi từ nhỏ.
Sùng A Hồng, 16 tuổi, đang ngồi nghỉ chờ đoàn khách của mình đi qua. Hồng hiện học lớp 9, vào những ngày cuối tuần cậu đi làm porter, khoảng 1 - 2 tháng một chuyến. Hồng kể, niềm vui lớn nhất của em là được khách bo nhiều tiền, có khi lên tới 1 - 1,5 triệu đồng một chuyến.
Sùng A Hồng, 16 tuổi, đang ngồi nghỉ chờ đoàn khách của mình.
Năm 2015, nhóm porter của anh Trư cùng nhau dựng một lán trại ở đỉnh 2.100 m làm chỗ ăn nghỉ cho các đoàn khách. Đây là trạm nghỉ qua đêm duy nhất trong suốt hành trình chinh phục đỉnh núi cao hơn 3.000 m. Toàn bộ khu lán được hoàn thành trong 3 tháng, chủ yếu bằng sức người, loại máy móc duy nhất được sử dụng là chiếc cưa xẻ gỗ chạy bằng xăng.
Giữa tháng 5, nhiệt độ ban đêm trên núi chỉ ở khoảng 15 độ C kèm theo gió mạnh. Vào những ngày có đoàn đông, các porter sẽ ngủ ngoài trời để nhường chỗ trong lán cho khách. Một số người còn khoẻ sẽ cùng uống rượu đến rạng sáng mới ngủ.
Trời sáng, đoàn tiếp tục lên đường. Trong ảnh là một nữ porter được phân công đi trước đoàn 1 tiếng để chuẩn bị sẵn đồ ăn, nước uống.
Dãy núi Ky Quan San mang đến thu nhập bằng nhiều cách cho những người Mông sống tại đây. Ngoài làm nông hay porter, người dân còn đi hái nấm, lấy mật ong, phong lan rừng… để mang xuống chợ phiên hoặc bán cho thương lái dưới xuôi.