Theo Điều 4 Thông tư 16, các tổ chức tín dụng chỉ được mua trái phiếu doanh nghiệp khi tổ chức tín dụng đó có tỷ lệ nợ xấu dưới 3% theo kỳ phân loại gần nhất theo quy định của Ngân hàng Nhà nước về phân loại tài sản có, mức trích, phương pháp trích lập dự phòng rủi ro và việc sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro.
Đây là quy định mới được bổ sung và chưa từng được ghi nhận tại Thông tư 22/2016/TT-NHNN, Thông tư 15/2018/TT-NHNN hiện đang áp dụng với hoạt động mua, bán trái phiếu doanh nghiệp của tổ chức tín dụng.
Ngoài ra, Thông tư 16 còn quy định, tổ chức tín dụng không được mua trái phiếu doanh nghiệp khi trái phiếu doanh nghiệp phát hành, trong đó có mục đích để cơ cấu lại các khoản nợ của chính doanh nghiệp phát hành, hoặc để góp vốn, mua cổ phần tại doanh nghiệp khác, hoặc để tăng quy mô vốn hoạt động.
Ngoài ra, tổ chức tín dụng không được bán trái phiếu doanh nghiệp cho công ty con của mình, trừ trường hợp tổ chức tín dụng là bên nhận chuyển giao bắt buộc bán trái phiếu doanh nghiệp cho ngân hàng thương mại được chuyển giao bắt buộc. Đặc biệt, chi nhánh ngân hàng nước ngoài không được mua trái phiếu chuyển đổi, trái phiếu kèm chứng quyền.
Trong vòng 12 tháng sau khi bán trái phiếu doanh nghiệp chưa niêm yết/đăng ký giao dịch trên thị trường chứng khoán, tổ chức tín dụng không được mua trái phiếu doanh nghiệp chưa niêm yết/đăng ký giao dịch mà tổ chức tín dụng đã bán và/hoặc trái phiếu doanh nghiệp chưa niêm yết được phát hành cùng lô/cùng đợt phát hành với trái phiếu doanh nghiệp chưa niêm yết mà tổ chức tín dụng đã bán.
Sau thời hạn 12 tháng trên, tổ chức tín dụng chỉ được mua các loại trái phiếu như trên khi đáp ứng các quy định như bên mua trái phiếu doanh nghiệp này từ tổ chức tín dụng thanh toán toàn bộ số tiền tại thời điểm tổ chức tín dụng ký kết hợp đồng bán trái phiếu doanh nghiệp cho bên mua trái phiếu; Doanh nghiệp phát hành trái phiếu được xếp hạng ở mức cao nhất theo quy định xếp hạng tín dụng nội bộ của tổ chức tín dụng tại thời điểm gần nhất trước khi tổ chức tín dụng mua trái phiếu doanh nghiệp...
Thông tư 16 cũng quy định, tổ chức tín dụng chỉ được mua trái phiếu doanh nghiệp khi mục đích sử dụng tiền thu từ phát hành trái phiếu của doanh nghiệp hợp pháp và phù hợp với phương án phát hành trái phiếu và/hoặc phương án sử dụng vốn, số tiền thu được từ đợt chào bán, đợt phát hành được phê duyệt theo quy định của pháp luật.
Doanh nghiệp phát hành cam kết mua lại trái phiếu trước hạn khi thay đổi mục đích sử dụng tiền thu từ phát hành trái phiếu trong thời gian tổ chức tín dụng nắm giữ trái phiếu; doanh nghiệp phát hành vi phạm quy định pháp luật về phát hành trái phiếu doanh nghiệp; doanh nghiệp phát hành vi phạm phương án phát hành.
Phương án khả thi và doanh nghiệp phát hành trái phiếu có khả năng tài chính để đảm bảo thanh toán đủ gốc và lãi trái phiếu đúng hạn. Đặc biệt, doanh nghiệp phát hành không có nợ xấu tại các tổ chức tín dụng trong vòng 12 tháng gần nhất trước thời điểm tổ chức tín dụng mua trái phiếu doanh nghiệp.
Với các doanh nghiệp thay đổi mục đích sử dụng tiền từ đợt phát hành, ngân hàng chỉ được phép mua trái phiếu này khi doanh nghiệp phát hành được xếp hạng ở mức cao nhất theo quy định xếp hạng tín dụng nội bộ của tổ chức tín dụng tại thời điểm gần nhất.
Tổng số dư mua trái phiếu doanh nghiệp được tính vào tổng mức dư nợ cấp tín dụng đối với một khách hàng, đối với một khách hàng và người có liên quan theo quy định tại Điều 128 Luật Các tổ chức tín dụng (đã được sửa đổi, bổ sung) và quy định của Ngân hàng Nhà nước về các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng.