Lợi thế chiến lược
Trình bày tham luận tại Diễn đàn cấp cao Kinh tế Việt Nam 2025, triển vọng 2026 với chủ đề “Kinh tế Việt Nam phát triển nhanh, bền vững, chuyển đổi xanh trong kỷ nguyên số” do Ban Chính sách, chiến lược Trung ương phối hợp với Chính phủ đồng chỉ đạo tổ chức ngày 16/12, ông Tim Evans, Tổng giám đốc HSBC Việt Nam cho biết, năm 2014, Việt Nam đã quay lại thị trường vốn quốc tế thành công trong đợt phát hành 1 tỷ USD trái phiếu Chính phủ quốc tế kỳ hạn 10 năm. Đây là đợt phát hành trái phiếu quốc tế bằng đồng đô-la Mỹ đầu tiên của Chính phủ kể từ tháng 1/2010.
Giao dịch này thiết lập mức tham khảo lãi suất quan trọng cho Việt Nam, thể hiện quyết tâm của Chính phủ trong việc chủ động quản lý danh mục nợ công và dẫn thêm nguồn vốn vào các dự án mang lại hiệu quả thực sự. HSBC là ngân hàng đồng giữ sổ và phụ trách chào bán trong giao dịch này, đồng thời là ngân hàng ghi hóa đơn và phát hành của đợt chào thầu cũng như đợt phát hành trái phiếu.
Thực tế cho thấy, thị trường vốn quốc tế có thể đóng vai trò như một nguồn vốn với chi phí vay thấp hơn, nguồn vốn và số lượng các nhà đầu tư đa dạng, với các kênh và công cụ tài chính khác nhau. Tiếp cận được thị trường quốc tế, cả Chính phủ lẫn doanh nghiệp đều có thể huy động vốn từ nhiều khu vực, bằng nhiều loại ngoại tệ và từ nhiều đối tượng nhà đầu tư, giúp nền tảng vốn ổn định và vững vàng hơn trước các cú sốc kinh tế trong nước.
Ông Tim Evans nhận định, vay vốn từ bên cho vay nước ngoài hoặc thị trường vốn nước ngoài bên cạnh lợi thế về chi phí vốn, còn có nhiều lợi thế khác. Cụ thể, các khoản vay nước ngoài linh hoạt hơn về mục đích sử dụng vốn, cho phép một công ty lớn dùng vốn vay vào nhiều mục đích như vốn lưu động, mua lại công ty khác, cấp vốn cho công ty con, đồng thời cơ cấu lại nhiều khoản nợ trong hoặc ngoài nước…
Ngoài ra, các bên cho vay nước ngoài nhìn chung không quá đòi hỏi hồ sơ phức tạp giúp toàn bộ quy trình vay xuyên suốt hơn. Với những giao dịch tài trợ quy mô lớn, phức tạp và cấp thiết, thủ tục đơn giản hơn đồng nghĩa tốc độ tiếp cận vốn nhanh hơn.
Ở góc độ doanh nghiệp, năm 2022, HSBC hỗ trợ Masan Group và công ty con The Sherpa huy động khoản vay hợp vốn có kỳ hạn trị giá 600 triệu USD, gần gấp đôi so với mục tiêu ban đầu là 375 triệu USD, góp phần vào sự phát triển của thị trường tiêu dùng Việt Nam.
Điều này cho thấy, các tập đoàn trong nước đang dần bước chân vào thị trường vốn toàn cầu để đa dạng nền tảng vốn, giảm sự phụ thuộc vào tín dụng trong nước, cũng như thị trường trái phiếu nội địa. Hướng đi này đặc biệt cần thiết để đạt được các thỏa thuận tài trợ vốn quy mô lớn, kỳ hạn dài và cơ cấu phức tạp, bao gồm các công cụ tài chính như khoản vay và trái phiếu xanh/xã hội.
![]() |
"Trong bối cảnh hạn mức tín dụng giảm dần theo lộ trình, chúng tôi kỳ vọng sẽ chứng kiến thêm doanh nghiệp Việt từ cả hai khu vực công tư vươn ra nước ngoài để tìm kiếm nguồn vốn họ cần", ông Tim Evans nói. |
Theo ông Tim Evans, các công ty Việt Nam có nhiều cơ hội để tham gia vào sân chơi tài chính toàn cầu nhưng vẫn còn đó những rào cản cần tháo gỡ.
Thứ nhất, các nhà đầu tư và ngân hàng quốc tế phải dựa vào các tổ chức xếp hạng tín nhiệm như S&P, Moody’s, Fitch… để đánh giá mức độ tín nhiệm của bên vay. Chúng ta cần mức xếp hạng tín nhiệm tốt để tham gia thị trường cổ phiếu và trái phiếu toàn cầu mà không phải trả mức lãi suất cao hơn (phần bù rủi ro).
Thứ hai, chuẩn mực kế toán và báo cáo của Việt Nam (VAS) khác biệt đáng kể so với chuẩn mực quốc tế (IFRS). Các nhà đầu tư toàn cầu có thể gặp khó khăn trong việc so sánh thông tin tài chính của một doanh nghiệp Việt dùng VAS với một công ty ở nước khác dùng IFRS do khác biệt cơ bản trong nguyên tắc kế toán. Ngoài ra, họ cũng đòi hỏi thông tin chi tiết, đúng chuẩn và kịp thời để đưa ra quyết định đầu tư. Thông tin công bố không đầy đủ, kém thường xuyên hoặc không theo chuẩn mực quốc tế sẽ tạo ra sự không chắc chắn, thiếu tin tưởng, khiến nhà đầu tư chần chừ cam kết vốn.
Thứ ba, các nhà đầu tư quốc tế, đặc biệt là nhà đầu tư tổ chức, đòi hỏi nhiều tiêu chuẩn và thông lệ quản trị doanh nghiệp bên cạnh những con số tài chính. Đó là các yếu tố ESG, việc liên hệ làm việc với nhà đầu tư thường xuyên và chuyên nghiệp… Nhiều công ty Việt Nam chưa có đủ kinh nghiệm trong giao tiếp và xử lý kỳ vọng của những nhà đầu tư toàn cầu sành sỏi dẫn đến đánh mất cơ hội thu hút vốn ngoại.
“Hiện tại, Việt Nam đang đầu tư mạnh vào các dự án quy mô lớn, dài hạn trong lĩnh vực năng lượng và hạ tầng vốn cần hàng tỷ USD, vượt xa mức có thể huy động từ lợi nhuận kinh doanh hay vay trong nước. Trong bối cảnh hạn mức tín dụng giảm dần theo lộ trình, chúng tôi kỳ vọng sẽ chứng kiến thêm doanh nghiệp Việt từ cả hai khu vực công tư vươn ra nước ngoài để tìm kiếm nguồn vốn họ cần. Đây chính là tín hiệu cho thấy sự trưởng thành và cởi mở của bối cảnh tài chính doanh nghiệp Việt Nam”, ông Tim Evans nhấn mạnh.
Để thắng lợi trên trường quốc tế
Cũng theo ông Tim Evans, doanh nghiệp Việt cần ưu tiên nâng cao chất lượng quản trị doanh nghiệp, học hỏi các thông lệ quốc tế tốt nhất về tính độc lập của ban quản trị, quyền của cổ đông và kiểm soát nội bộ. Việc này giúp tạo dựng lòng tin nơi nhà đầu tư và cho thấy cam kết quản lý có trách nhiệm.
Doanh nghiệp cũng có thể cải thiện báo cáo tài chính và ESG bằng cách cung cấp báo cáo tài chính kịp thời, chính xác và toàn diện theo tiêu chuẩn IFRS. Thêm nữa, lồng ghép các chỉ số và báo cáo ESG vào báo cáo tài chính, báo cáo bền vững mang lại cái nhìn tổng thể về kết quả kinh doanh và tác động vốn là một yêu cầu ngày càng cần thiết đối với vốn quốc tế. Hiện tại, việc tuân thủ ESG đang ngày càng trở thành yêu cầu bắt buộc với phần nhiều khoản vốn tài chính quốc tế.
Bên cạnh đó, đánh giá khách quan của các tổ chức xếp hạng tín nhiệm như Moody’s, S&P và Fitch cũng đặc biệt quan trọng với những doanh nghiệp Việt muốn huy động vốn từ thị trường quốc tế.
Thêm nữa, để trở nên hấp dẫn hơn trên trường quốc tế, các doanh nghiệp Việt cần thúc đẩy năng lực kinh doanh căn bản. Doanh nghiệp có thể đạt được bằng cách ứng dụng số hóa, đặc biệt đối với nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ. Điều đó giúp cải thiện hiệu quả hoạt động, tăng cường khả năng giám sát chuỗi cung ứng và nâng cao sức bền nói chung cho doanh nghiệp vốn là ưu tiên chính trong thương mại quốc tế. Công ty trong nước cũng nên chú trọng vào sản phẩm, dịch vụ có giá trị cộng thêm cao hơn thông qua đầu tư vào công nghệ, R&D và đổi mới sáng tạo. Đồng thời, cần xây dựng được chuỗi cung ứng trong nước mạnh mẽ hơn, có sức cạnh tranh cao hơn, cũng như tạo dựng liên kết giữa các doanh nghiệp nội địa, đặc biệt là nhóm doanh nghiệp vừa và nhỏ, với nhóm doanh nghiệp FDI…
“Cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, doanh nghiệp Việt nên từng bước cơ cấu lại tài chính để trở nên mạnh mẽ, ổn định và lợi nhuận hơn trong mắt cộng đồng tài chính toàn cầu”, ông Tim Evans nói.
![]() |
"Để trở nên hấp dẫn hơn trên trường quốc tế, các doanh nghiệp Việt cần thúc đẩy năng lực kinh doanh căn bản", Tổng giám đốc HSBC Việt Nam nói. |
Cải thiện cơ cấu vốn, theo ông Tim Evans, giúp doanh nghiệp tìm được điểm cân bằng tối ưu tỷ lệ nợ trên vốn chủ sở hữu nhằm đạt được chất lượng rủi ro tốt hơn và đáp ứng tiêu chuẩn khắt khe được thế giới công nhận của các nhà đầu tư quốc tế cũng như tổ chức xếp hạng tín nhiệm. Một hướng đi chiến lược khác là xây dựng sẵn nhiều dự án phù hợp với nhiều hình thức vay như tín dụng xuất khẩu, tài trợ dự án, trái phiếu hoặc khoản vay cho doanh nghiệp… Có trong tay nhiều dự án phù hợp và sẵn sàng cho thấy sự hiểu biết và giảm rủi ro đối với các ngân hàng thương mại nước ngoài, tổ chức Bảo hiểm Tín dụng Xuất khẩu và nhà đầu tư tổ chức.
“Các công ty Việt Nam có thể cải thiện điểm tín nhiệm cũng như mức độ tuân thủ kỷ luật tài chính trước các nhà đầu tư toàn cầu bằng cách bắt đầu bằng những giao dịch vay nhỏ, trong khả năng rồi dần dần từng bước tăng quy mô lên”, ông Tim Evans nhấn mạnh.

