Đó là khuyến nghị được các chuyên gia đưa ra tại hội thảo “Nâng cao năng lực cạnh tranh ngành logistics: Vấn đề và kiến nghị chính sách” do Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương (CIEM) vừa tổ chức ngày 29/10.
Theo TS. Nguyễn Đình Cung, Viện trưởng CIEM, logistics là xương sống của thương mại quốc tế. Dịch vụ logistics có chi phí thấp và khả năng đáp ứng cao yêu cầu của khách hàng sẽ thúc đẩy thương mại trong và ngoài nước và kinh tế quốc gia phát triển.
Hiệu quả logistics cho thấy, đối với các nước có cùng thu nhập đầu người, thì quốc gia nào có hoạt động logistics tốt nhất có sự gia tăng về tăng trưởng 1% GDP và 2% thương mại.
Nhận thức được tầm quan trọng này, Chính phủ rất quan tâm đến phát triển ngành logistics, đặc biệt trong những năm gần đây đã có nhiều chính sách hỗ trợ phát triển thúc đẩy dịch vụ ngành này.
Báo cáo của Ciem cho thấy, trong năm 2018, hàng trăm văn bản pháp lý liên quan đã được ban hành, góp phần cải thiện hiệu quả của ngành. Nhờ đó, lĩnh vực logistic đã được xếp vào nhóm trên, riêng thuận lợi hóa thương mại được xếp vào nhóm giữa toàn cầu.
Mặc dù vậy, năng lực cạnh tranh của ngành logistics vẫn còn rất nhiều trở ngại như: Cơ sở hạ tầng phát triển không đồng bộ, thiếu kết nối; điều kiện kinh doanh, quản lý chuyên ngành và các thủ tục hành chính còn lớn; phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin trong các doanh nghiệp logistics trong nước chưa rộng, chủ yếu ở mức độ đơn giản.
Đặc biệt, theo bà Nguyễn Thị Minh Thảo, Trưởng ban, Ban Môi trường kinh doanh và năng lực cạnh tranh, rào cản phát triển của ngành này hiện vẫn còn rất nhiều chủ yếu ở các điều kiện kinh doanh.
Bà Thảo dẫn chứng một doanh nghiệp nộp hồ sơ đăng ký phù hiệu cho 200 xe tải, nhưng sau gần 3 tháng tính từ ngày doanh nghiệp nộp hồ sơ, đến nay, doanh nghiệp vẫn chưa được cấp phù hiệu.
“Có rất nhiều lý do khiến doanh nghiệp không đủ điều kiện được cấp phù hiệu, như: bản sao y công chứng của một bộ hồ sơ bị mờ, dù doanh nghiệp có đem theo bản gốc để đối chiếu nhưng cán bộ tiếp nhận hồ sơ trả lại toàn bộ mấy trăm bộ hồ sơ; hoặc mỗi lần đến, cán bộ tiếp nhận lại yêu cầu sửa một nội dung mang tính lẻ tẻ, không hệ thống, khiến doanh nghiệp tốn rất nhiều thời gian và công sức”, bà Thảo cho biết.
Chưa kể một thực tế vẫn hiện hữu mà nhiều doanh nghiệp phản ánh là những doanh nghiệp “cô đơn”, không có mối quan hệ với cơ quan Nhà nước rất khó làm ăn, mặc dù điều kiện kinh doanh đã được cắt giảm.
Bên cạnh đó, nghiên cứu của Ciem về sàn giao dịch vận tải cho thấy mô hình này dù đã được thành lập và đi vào hoạt động tại Việt Nam từ nhiều năm nay nhưng không hiệu quả, thậm chí không có giao dịch, tình trạng chở container rỗng còn phổ biến.
Theo lý giải của bà Thảo, nguyên nhân là do các doanh nghiệp chưa tin tưởng vào uy tín của sàn giao dịch vận tải cũng như các doanh nghiệp logistics tham gia trên sàn; chưa có giải pháp đảm bảo an toàn hàng hóa cho chủ hàng.
Bên cạnh đó, sàn giao dịch chưa được Bộ Giao thông vận tải quan tâm vận hành một cách chính thức mà chủ yếu do một số công ty tư nhân thiết lập với mục đích góp phần hạn chế xe chạy rỗng, giảm chi phí.
“Với nền tảng hạn chế này, các sàn giao dịch vận tải thiếu độ tin cậy với các doanh nghiệp logistics”, bà Thảo nhận xét.
Logistics cũng là một trong những ngành mà Việt Nam cần nghiên cứu, phân tích để tận dụng được các cơ hội từ cuộc cách mạng 4.0 nhằm cải thiện hiệu quả.
- Ông Michael Krakowski, Cố vấn trưởng Giám đốc chương trình cải cách kinh tế vĩ mô và tăng trưởng xanh GIZ
Để nâng cao hiệu quả hoạt động của ngành, ông Trần Đức Nghĩa, Giám đốc Công ty TNHH Quốc tế Delta kiến nghị, cần luật hóa việc ứng dụng IT vào điều kiện kinh doanh; thuế xuất nhập khẩu và chính sách mặt hàng đối với hàng thương mại điện tử xuyên biên giới và có hạn mức miễn thuế.
“Hiện, tại Việt Nam, doanh nghiệp nước ngoài đang nắm quyền chi phối trong lĩnh vực logistics. Nếu có những rào cản như hiện nay, doanh nghiệp trong nước không thể phát triển được, chưa nói đến cạnh tranh” ông Cảnh nhấn mạnh.
Ông Michael Krakowski, Cố vấn trưởng Giám đốc chương trình cải cách kinh tế vĩ mô và tăng trưởng xanh GIZ cho rằng, Việt Nam cần có những chính sách được tiếp cận theo từng nhóm, ngành cụ thể; đồng thời, cần xác định đối với từng nhóm, ngành và đưa ra giải pháp cho từng ngành cụ thể.
"Logistics cũng là một trong những ngành mà Việt Nam cần nghiên cứu, phân tích để tận dụng được các cơ hội từ cuộc cách mạng 4.0 nhằm cải thiện hiệu quả", ông Michael Krakowski nhấn mạnh.