Giá vàng trong nước ổn định quanh 37,65 triệu/lượng

Giá vàng trong nước ổn định quanh 37,65 triệu/lượng

(ĐTCK-online) Giá vàng thế giới mở cửa sáng nay trên thị trường châu Á có xu hướng tăng nhẹ từ mức 1.486 USD/ounce lên mức 1.493 USD/ounce. Giá vàng trong nước ít biến động sau khi giảm mạnh cuối tuần trước, ổn định quanh 37,65 triệu/lượng sau những thông tin việc mua bán vàng sẽ không bị cấm.

Sáng nay 4/7, giá vàng thế giới giao ngay tăng trở lại đầu phiên giao dịch sau khi giảm 1% tuần trước. Đồng USD yếu đi so với các ngoại tệ khác bởi nỗi lo về vấn đề nợ công tại Hy Lạp đã tìm được hướng giải quyết. Nhân tố này đang ủng hộ cho sự phục hồi của giá vàng.

Giá vàng giảm 1% tuần trước và tính chung tháng Sáu có mức giảm 3,4%.  Đây là tháng giảm giá thứ hai liên tiếp của kim loại quý này.

Nhu cầu mua vào đối với vàng đã bị ảnh hưởng sau khi Hy Lạp đạt được thỏa thuận về cắt giảm chi tiêu. Như vậy quốc gia này có thể được viện trợ từ các tổ chức quốc tế và thoát khỏi nguy cơ vỡ nợ. Sự ổn định tâm lý của nhà đầu tư khiến họ ưa thích hơn các loại tài sản rủi ro và nhu cầu đầu tư an toàn bị giảm bớt. Thông tin từ kinh tế Mỹ cũng khá lạc quan khi chỉ số sản xuất tại Mỹ trong tháng Sáu tăng cao hơn nhiều so với dự báo.

Biện phát nới lỏng định lượng của Mỹ đã kết thúc nhưng khó có thể khiến chu trình tăng giá 10 năm qua của giá vàng phải dừng lại. Tuy nhiên lúc này giá vàng đang gặp trở ngại lớn trong việc tìm kiếm nguồn vốn giá rẻ, nhân tố chính đem giá vàng lên đỉnh cao kỷ lục thời gian qua.

Nguồn vốn đầu tư thiên về xu hướng tăng của giá vàng đã giảm bớt trên sàn giao dịch Comex theo số liệu của Ủy ban giao dịch hàng hóa tương lai tại Mỹ. Điều này phản ánh qua số hợp đồng vàng kỳ hạn và quyền chọn của giá vàng. Đây là điều dễ hiểu khi giá vàng đã giảm 3% thời gian qua.

Trên thị trường quốc tế, vàng giảm mạnh liên tiếp trong 2 phiên cuối tuần trước, do Hy lạp sẽ tránh được vỡ nợ sau khi quốc hội Hy Lạp bỏ phiếu chấp thuận chương trình thắt lưng buộc bụng, điều này khiến xói mòn nhu cầu trú ẩn an toàn. Thêm áp lực cho vàng là giá hàng hoá tụt giảm mạnh trước việc dòng tiền đang có dấu hiệu thoát khỏi hàng hoá.

Quỹ tín thác đầu tư vàng lớn nhất thế giới là SPDR Gold Trust trong phiên giao dịch cuối tuần trước đã bán ra 2,42 tấn, giảm lượng vàng nắm giữ xuống 1.205,85 tấn. Trong tháng 6, quỹ đã bán ròng 4,64 tấn vàng, sau khi bán ra hơn 18 tấn trong tháng 5.

James Steel, chuyên gia phân tích của ngân hàng HSBC cho biết nhu cầu đầu tư hiện là nhân tố chính thúc đẩy giá vàng. HSBC đã nâng dự đoán giá vàng năm 2011 lên 1.525 USD/ounce từ 1.450 USD/ounce và năm 2012 lên 1.500 USD/ounce từ 1.300 USD/ounce và năm 2013 là 1.450 USD/ounce.

Tại thị trường trong nước, giá vàng SJC của Công ty Vàng bạc đá quý Sài Gòn niêm yết lúc 09 giờ sáng nay là 37,58 - 37,66 triệu đồng/lượng.

Tại Công ty Vàng bạc đá quý Sacombank, giá vàng SBJ niêm yết là 37,60 - 37,66 triệu đồng/lượng (giá bán tăng 20 nghìn đồng/lượng so với cuối tuần qua).

Tại Công ty Vàng bạc đá quý Phú Nhuận, giá vàng PNJ niêm yết là 37,58 - 37,62 triệu đồng/lượng (giá mua tăng 10 nghìn đồng, giá bán giảm 10 nghìn đồng/lượng).

Tại Công ty Vàng bạc đá quý Bảo Tín Minh Châu, giá vàng miếng Rồng vàng Thăng Long niêm yết là 37,56 - 37,64 triệu đồng/lượng.

Theo các công ty kinh doanh vàng, giá vàng trong nước giảm ít hơn so với mức tụt giảm của giá vàng thế giới vì nhu cầu mua vào của người dân đã mạnh trở lại sau dự thảo vàng mới đây. Được biết, dự thảo vàng lần này cho thấy, việc sản xuất vàng miếng sẽ không bị cấm và người dân được mua, được bán vàng ở những doanh nghiệp, ngân hàng do NHNN cấp phép.

Trên thị trường ngoại tệ, tỷ giá giao dịch bình quân liên ngân hàng được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam công bố áp dụng cho ngày 4/7 là 20.613 đồng/USD, giảm 5 đồng.

Tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), giá USD mua vào niêm yết là 20.550 đồng/USD và bán ra ở mức 20.620 đồng/USD, tăng 10 đồng/USD so với cuối tuần trước.

Tỷ giá ngoại tệ ngày 04/07/2011

Mã NT

Mua

CK

Bán

USD

 20.550,00

 20.550,00

 20.620,00

EUR

 29.669,65

 29.758,93

 30.160,40

GBP

 32.636,84

 32.866,91

 33.310,31

JPY

 249,92

 252,44

 257,38

AUD

 21.875,68

 22.007,73

 22.349,28

Nguồn: Vietcombank