DNNN cần 3 vòng kiểm soát

DNNN cần 3 vòng kiểm soát

(ĐTCK) Tình trạng tài chính và quản trị tài chính ở nhiều DNNN rất yếu kém. Một trong những nguyên nhân là khâu kiểm soát tài chính chưa được coi trọng, không duy trì hệ thống kiểm soát nội bộ và kiểm toán nội bộ.

Để DNNN hoạt động hiệu quả, tương xứng với những lợi thế và đầu tư của Nhà nước, cần phải có những giải pháp đồng bộ và được triển khai quyết liệt.

DNNN cần 3 vòng kiểm soát ảnh 1Để DNNN hoạt động hiệu quả, cần những giải pháp đồng bộ và được triển khai quyết liệt

Cần nhiều giải pháp đồng bộ

Để lành mạnh hóa và nâng cao hiệu quả hoạt động tài chính của DNNN nói chung, công ty mẹ - công ty con và tập đoàn kinh tế (TĐKT) nói riêng, trước hết, cần có quy định pháp lý về nghĩa vụ và quyền của đại diện chủ sở hữu trong việc huy động, tổ chức và sử dụng nguồn lực cho hoạt động kinh doanh. Thực hiện triệt để hơn việc tách chức năng thực hiện các quyền chủ sở hữu với chức năng quản lý hành chính nhà nước. Tách bạch quyền chủ sở hữu với quyền chủ động kinh doanh của DN. Tôn trọng quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong kinh doanh của DN.

Hoàn thiện cơ chế phân cấp việc thực hiện quyền, nghĩa vụ của chủ sở hữu nhà nước theo nguyên tắc có một đầu mối chịu trách nhiệm chính, thực hiện nhiệm vụ theo dõi, tổng hợp tình hình quản lý, sử dụng vốn, tài sản nhà nước và phân tích, đánh giá hiệu quả sản xuất - kinh doanh của DNNN, kể cả các tập đoàn, tổng công ty.

Thứ hai, chấn chỉnh hoạt động đầu tư tràn lan ở một số DNNN, nhất là sử dụng vốn nhà nước đầu tư vào những lĩnh vực có nhiều rủi ro, trong khi DN không có bộ máy, nhân lực thích hợp, gây thất thoát vốn hoặc sử dụng vốn không hiệu quả. Sử dụng nhiều biện pháp, nhiều hình thức để thoái vốn đầu tư ngoài ngành, ngoài chức năng của DN.  Vốn nhà nước phải được ưu tiên tập trung đầu tư thực hiện nhiệm vụ chính, ngành nghề chính, lĩnh vực thuộc chức năng của DN. Có giải pháp tích cực, bằng nhiều hình thức xử lý triệt để tình trạng nợ dây dưa, nợ chiếm dụng không lành mạnh giữa các DN, giữa DN với các tổ chức tín dụng. Có thể sử dụng cả các biện pháp mua bán nợ, chuyển nợ thành vốn góp, vốn cổ phần…

Thứ ba, kiên quyết xử lý sớm, xử lý dứt điểm các DN hoạt động không hiệu quả, thua lỗ kéo dài. Cần thì cho phá sản, giải thể để tổ chức lại. Làm rõ trách nhiệm tập thể, cá nhân, không để tình trạng vốn đầu tư của Nhà nước tiếp tục bị thất thoát, lãng phí và sử dụng không hiệu quả. Đẩy nhanh tiến độ sắp xếp cổ phần hóa. Coi cổ phần hóa là một trong các biện pháp hữu hiệu để tái cấu trúc tài chính DN, đổi mới phương thức quản trị DN.

Thứ tư, cần có biện pháp chủ động và bắt buộc các TĐKT, một số tổng công ty nhà nước chuyển sang hoạt động dưới hình thức công ty đại chúng. Tình hình và kết quả hoạt động của tập đoàn và các thành viên của tập đoàn, thực trạng tài chính của tập đoàn phải được công khai và chịu sự kiểm soát không chỉ của Nhà nước với tư cách đại diện chủ sở hữu, mà cả của nhân dân - những người chủ đích thực.

Thứ năm, xây dựng hệ thống kiểm tra, giám sát đủ năng lực và điều kiện về quản lý vốn, tài sản tại các tập đoàn, tổng công ty song song với việc tăng tính trách nhiệm của cơ quan quản lý. Quy định rõ trách nhiệm của HĐQT, HĐTV, tổng giám đốc về hiệu quả hoạt động sản xuất - kinh doanh của DN. Có các cơ chế thưởng, phạt bảo đảm cho các đối tượng này thực hiện tốt các chức năng, nhiệm vụ được giao và chịu trách nhiệm vật chất về các quyết định kinh tế. Hoàn thiện quy chế đánh giá, xếp hạng chất lượng hoạt động của DN. Có các biện pháp chế tài đủ mạnh và kiên quyết thực hiện để làm cơ sở đánh giá kết quả, chấn chỉnh hoạt động của HĐQT, HĐTV và tổng giám đốc.

Thứ sáu, cần xây dựng các tiêu chí mang tính bắt buộc đối với các TĐKT, tổng công ty nhà nước như tỷ suất lợi nhuận trên đồng vốn, tăng năng suất lao động, tăng kim ngạch xuất khẩu, giảm chi phí quản lý, giảm mức tiêu hao năng lượng và nguyên vật liệu, số lượng, chất lượng các sáng chế, phát minh… Các chỉ tiêu và tiêu chí cần được giao và đánh giá thường xuyên. Những đánh giá này cần được thực hiện hàng năm và công bố công khai.

Thứ bảy, cần thay đổi công tác quản lý tài chính của các tập đoàn. Các tập đoàn kinh tế, các tổng công ty cần quản lý các công ty con, các DN thành viên thông qua kiểm soát tài chính.

Thứ tám, cần thiết lập hệ thống kiểm soát nội bộ, kiểm toán nội bộ. Cần đảm bảo tính hiệu lực và hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ bao gồm: các quy trình nghiệp vụ, các thủ tục hành chính và thủ tục nghiệp vụ, các quy chế, chính sách, hệ thống thông tin, hệ thống kiểm tra đánh giá và vấn đề phân cấp, phân quyền, bố trí nhân sự, trách nhiệm giải trình. Thực hiện nghiêm các quy trình, thủ tục giám sát, đảm bảo tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc bất kiêm nhiệm trong giao việc, giao quyền.

DNNN cần 3 vòng kiểm soát ảnh 2Vốn nhà nước phải được ưu tiên đầu tư vào nhiệm vụ chính, ngành nghề chính, lĩnh vực thuộc chức năng của DN

 

Tạo lập lại 3 vòng kiểm soát

Bộ Tài chính cần sớm khôi phục và duy trì chế độ kiểm toán nội bộ đã ban hành theo Quyết định số 832/TC-QĐ từ năm 1997. Quyết định về kiểm toán nội bộ này đã được ban hành khá đúng lúc, nhưng không được triển khai đầy đủ, không được quan tâm duy trì và tổ chức thực hiện. Do nhận thức, không thấy hết vai trò của kiểm toán nội bộ trong cơ chế tự chủ tài chính của nền kinh tế thị trường cùng với những chi phối bởi lợi ích mang tính cục bộ, nên đã sớm vô hiệu hóa Quyết định quan trọng nêu trên.

Trong từng DNNN - nơi Nhà nước là chủ sở hữu vốn, trong từng TĐKT, từng công ty mẹ - công ty con - nơi Nhà nước nắm cổ phần chi phối hoặc có vốn của Nhà nước, cần tạo lập lại 3 vòng kiểm soát để bảo vệ tài sản, vốn và lợi ích kinh tế của Nhà nước theo nguyên tắc tổ chức và quản trị tài chính công ty.

Vòng kiểm soát thứ nhất chính là hệ thống kiểm soát nội bộ. Phải là một hệ thống kiểm soát hữu hiệu, có hiệu lực thực sự thích ứng từng DN, kiểm soát chặt chẽ thủ tục, quy trình nghiệp vụ từng nghiệp vụ kinh doanh, từng hoạt động kinh tế, đặc biệt là các hoạt động nghiệp vụ có liên quan trực tiếp đến tài chính, đến thu chi và luân chuyển của các dòng tiền, của các lợi ích kinh tế trực tiếp. Mỗi DN cần thiết lập và duy trì ngay trong nội bộ đơn vị các quy trình, thủ tục nghiệp vụ, trách nhiệm và quyền của tổ chức, cá nhân trong các quyết định kinh tế, quyết định tài chính.

Vòng kiểm soát thứ hai là hệ thống kiểm soát và quản trị rủi ro. Từng DN, tùy theo lĩnh vực, tính chất ngành nghề kinh doanh, năng lực và trình độ quản lý, cần nhận dạng và đánh giá các rủi ro có thể xảy ra gồm: rủi ro tiềm tàng, rủi ro phát hiện và rủi ro kiểm soát.

Kết hợp quản trị tiên tiến, hiện đại với chính những quy trình thủ tục và kỷ luật trong quản lý có hiệu quả từ những năm 60 của thế kỷ trước của các xí nghiệp quốc doanh trong cơ chế quản lý kinh tế kế hoạch hóa tập trung, nhưng có sự điều chỉnh cho phù hợp với tính chất, yêu cầu của cơ chế kinh tế mới - kinh tế thị trường, mở cửa và hội nhập. Quản trị rủi ro đòi hỏi kỹ năng quản trị mang tính tiên tiến của nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước với cả hai vai trò: chủ sở hữu và quản lý hành chính nhà nước.

 Vòng kiểm soát thứ ba là kiểm toán nội bộ. Các DNNN cần và phải thiết lập, duy trì hệ thống kiểm toán nội bộ. Kiểm toán nội bộ trong DN, TĐKT, tổng công ty nhà nước sẽ nâng cao độ tin cậy của thông tin tài chính và quan trọng hơn là phát hiện kịp thời những tồn tại, những sai phạm trong kinh doanh để có những quyết định điều chỉnh hoạt động phù hợp với yêu cầu thị trường.