Tại phiên họp chuyên đề Uỷ ban I về công nghệ tài chính và tài sản số ngày 30/09 do Ban nghiên cứu phát triển kinh tế tư nhân (Ban IV) tổ chức, ông Lê Văn Thành, Phó tổng giám đốc Ngân hàng số Vikki cho biết, Nghị quyết 68 hướng tới việc phát triển kinh tế tư nhân, nhưng đặc thù ở Việt Nam là số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ đang rất lớn.
“Chúng ta mong muốn các doanh nghiệp nhỏ này phát triển, và thực tế đã có cơ chế hỗ trợ. Tuy nhiên, để phát triển, doanh nghiệp phải có vốn, phải có tổ chức cấp tín dụng. Nhiều doanh nghiệp nhỏ lại không đủ điều kiện vay vốn theo quy trình thông thường. Vì vậy, họ cần một cơ chế đặc thù,” ông Thành nói.
Theo ông, một hướng đi có thể là xây dựng ngân hàng số chuyên cấp tín dụng, triển khai chính sách và tư vấn tài chính phát triển cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Quy trình cấp tín dụng cũng có thể được thiết kế đơn giản hơn, dựa trên chính dữ liệu giao dịch và hóa đơn điện tử – điều mà Nhà nước đang khuyến khích trong thanh toán không tiền mặt.
“Chỉ cần nhìn vào hóa đơn, giao dịch, chúng ta có thể đánh giá năng lực tín dụng và từ đó cấp vốn ngay,” ông Thành nêu quan điểm. Do đó, Việt Nam hoàn toàn có thể tạo ra một nền tảng ngân hàng riêng cho SME, trong đó Vikki có thể là ngân hàng số cung cấp tín dụng cho khối này.
![]() |
Toàn cảnh phiên họp chuyên đề Uỷ ban I về công nghệ tài chính và tài sản số chiều 30/09 (Ảnh: Lê Toàn) |
Ông Nguyễn Văn Thân, Đại biểu Quốc hội khoá XV, Chủ tịch Hiệp hội Doanh nghiệp nhỏ và vừa Việt Nam cũng bày tỏ sự trăn trở về câu chuyện thành lập ngân hàng số cho doanh nghiệp nhỏ và vừa. Hiện Việt Nam có thuận lợi lớn là lãnh đạo cấp cao nhà nước rất am hiểu vấn đề và kiên quyết ủng hộ phát triển công nghệ. Đây là thời điểm thuận lợi để thúc đẩy mô hình này.
Ông Thân nhận thấy, nếu Việt Nam không đẩy mạnh công nghệ, đặc biệt là các nền tảng số như ngân hàng số, chúng ta sẽ tụt lại phía sau so với các quốc gia đang tận dụng tài sản số và công nghệ hiện đại để bứt phá. Chính vì vậy, ông rất đồng tình việc thành lập ngân hàng số dành riêng cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, cũng như các hộ kinh doanh.
Hiện cả nước có 5,2 triệu hộ kinh doanh. Dù một số ngân hàng đã áp dụng cơ chế cho vay theo mô hình ngân hàng số từ hàng chục năm nay, nhưng Việt Nam chưa có chính sách và hành lang pháp lý đầy đủ.
Dẫu còn những e ngại từ một số cơ quan chuyên môn về rủi ro của mô hình này, nhưng ông đề xuất các cơ quan, tổ chức liên quan cùng phối hợp nghiên cứu, đưa ra sáng kiến để chứng minh mức độ rủi ro thực tế thấp hơn so với các khoản vay tín chấp hiện hành.
“Nếu làm được điều đó, chúng ta sẽ có cơ sở thuyết phục để ngân hàng số ra đời, mang lại lợi ích thiết thực cho doanh nghiệp nhỏ và vừa cũng như các hộ kinh doanh,” ông nhấn mạnh.
Về vấn đề này, bà Nguyễn Thị Phương Thảo, Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Sovico, cho biết, ngành ngân hàng Việt Nam mới có lịch sử phát triển hơn 30 năm. Trong khi đó, lĩnh vực fintech còn non trẻ hơn.
“Trong khoảng thời gian không phải dài, chúng ta đã xây dựng được một hệ thống ngân hàng thương mại cổ phần hùng hậu, đủ nguồn lực để gánh vác trách nhiệm phát triển kinh tế Việt Nam mà không phải dựa vào vốn của các ngân hàng nước ngoài hay hệ thống ngân hàng quốc doanh,” bà đánh giá.
Dù việc xây dựng một ngân hàng phục vụ doanh nghiệp nhỏ và vừa là cần thiết nhưng không đơn giản. Theo bà Thảo, bên cạnh yêu cầu ứng dụng công nghệ để hình thành ngân hàng số, mô hình này cần được hỗ trợ bằng cơ chế chính sách phù hợp, đặc biệt là chấp nhận cho vay dưới chuẩn.
“Nếu cho vay dưới chuẩn, việc đánh giá theo tiêu chuẩn của Ngân hàng Nhà nước sẽ nảy sinh vướng mắc. Đây chính là vấn đề cần kiến nghị về chính sách,” bà phân tích.
Bà đề xuất, khi một ngân hàng mới hoặc ngân hàng hiện hữu xung phong tham gia tài trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, cần có cơ chế chấm điểm, xếp hạng tín dụng riêng và quy định cụ thể về chuẩn cho vay. Đồng thời, thủ tục phải được số hóa để đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp trên cả nước.
“Thông qua kênh số, chúng ta sẽ phải giải quyết các vấn đề như định danh khách hàng (KYC), chữ ký số, chữ ký điện tử, công nhận hợp đồng và giao dịch số, cũng như tính xác thực của các giải pháp công nghệ như blockchain. Đó là nhiệm vụ của ban chúng ta: phải chuyển những ý kiến này thành đề án, dự án cụ thể được phê duyệt,” bà Thảo nhấn mạnh.
Dưới góc độ doanh nghiệp, bà Đinh Thị Thuý, Phó chủ tịch HĐQT CTCP MISA thông tin thêm, trong 31 năm hoạt động, MISA đã phục vụ khoảng 350.000 khách hàng doanh nghiệp. Hiện Công ty đang hợp tác với 10 ngân hàng lớn để triển khai cho vay tín chấp thông qua nền tảng công nghệ của mình.
Theo đó, các doanh nghiệp sử dụng phần mềm kế toán, hóa đơn điện tử của MISA khi có nhu cầu vay vốn có thể lập tức kết nối với ngân hàng. Doanh nghiệp chỉ cần cung cấp một số chỉ tiêu tài chính ngay trên nền tảng để ngân hàng xem xét và giải quyết khoản vay.
“Nhờ công nghệ số, tỷ lệ hồ sơ vay vốn được phê duyệt đã tăng gấp 10 lần so với trước, cứ 100 hồ sơ doanh nghiệp nộp cho ngân hàng thì có 30% doanh nghiệp được giải ngân. Trong hơn hai năm qua, hệ thống này đã hỗ trợ giải ngân khoảng 30.000 tỷ đồng, chứng minh công nghệ số có thể giúp doanh nghiệp vay vốn thuận lợi hơn”, bà Thuý dẫn chứng và cho rằng, có thể coi đây là một giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận nguồn vốn tín chấp thuận lợi hơn.