Phát triển thẻ chip: Nỗ lực từ cơ quan quản lý
Một khảo sát nhanh tại Diễn đàn Phát triển hệ sinh thái thanh toán điện tử 2019 “Chuyển đổi cùng công nghệ chip”, trong 4 quốc gia Indonesia, Nhật Bản, Malaysia và Hàn Quốc, nước nào là nước đã chuyển đổi sang thẻ chip nhanh nhất?
Câu trả lời của gần 200 khách có mặt tại diễn đàn chủ yếu tập trung vào Hàn Quốc, nhưng câu trả lời đúng là Malaysia.
“Đây là yêu cầu bắt buộc của cơ quan quản lý, cụ thể ở đây là Ngân hàng Trung ương Malaysia trong việc chuyển đổi sang thẻ chip”, bà Đặng Tuyết Dung, Giám đốc Visa tại Việt Nam và Lào chia sẻ lý do lựa chọn câu trả lời đúng.
Phát biểu tại diễn đàn, ông Nguyễn Kim Anh, Phó thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) cho biết, chuyển đổi thẻ thanh toán nội địa từ thẻ từ sang thẻ chip là một trong những nhiệm vụ được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Đề án phát triển thanh toán không dùng tiền mặt giai đoạn 2016-2020.
Triển khai nhiệm vụ này, ngày 5/10/2018, Thống đốc NHNN đã ban hành Bộ tiêu chuẩn cơ sở về thẻ chip nội địa quy định chi tiết các yêu cầu kỹ thuật thẻ thanh toán nội địa tại Việt Nam, tương thích với chuẩn EMV của quốc tế, giúp ngăn ngừa hữu hiệu rủi ro gian lận, giả mạo thẻ trong môi trường vật lý qua kênh ATM/POS và giúp thanh toán thẻ trở nên an toàn, tin cậy hơn đối với người tiêu dùng Việt Nam.
Đặc biệt, chuẩn thẻ chíp của Việt Nam với công nghệ thẻ giao diện kép (Dual-Interface) gồm tiếp xúc và phi tiếp xúc là công nghệ thẻ chip hiện đại nhất, hiện sánh ngang với những nước tiên tiến đã triển khai trước đó như Anh, Úc, Singapore hay Malaysia.
“Bên cạnh đó, ứng dụng thẻ chip giúp các ngân hàng phát hành thẻ nội địa Việt Nam có tiềm năng mở rộng hệ sinh thái thanh toán sang các ngành dịch vụ khác như y tế, giáo dục, giao thông, bảo hiểm..., đem lại lợi ích thiết thực và trải nghiệm giao dịch vượt trội cho người dân sử dụng dịch vụ”, ông Kim Anh nói.
Ở khía cạnh pháp lý, Phó thống đốc cho biết thêm, NHNN cũng đã ban hành Thông tư 41/2018 quy định về lộ trình chuyển đổi thẻ ngân hàng sang thẻ chip tuân thủ tiêu chuẩn cơ sở về thẻ chip nội địa.
Theo đó, lộ trình chuyển đổi đối với thiết bị chấp nhận thẻ tại điểm bán đang hoạt động tại Việt Nam (như ATM, POS...) là đến ngày 31/12/2020 và đối với thẻ nội địa đang lưu hành là ngày 31/12/2021.
Ông Trần Công Quỳnh Lân, Phó tổng giám đốc VietinBank thông tin thêm, thẻ chip là xu hướng phát triển tất yếu của thanh toán qua thẻ.
Tại nhiều quốc gia trên thế giới, việc chuyển đổi sang sử dụng hoàn toàn bằng thẻ chip đã thực hiện cách đây vài năm.
Theo số liệu của EMVCo, tính đến quý IV/2018, tỷ lệ giao dịch thẻ CHIP EMV Card-present trên toàn cầu chiếm 73,6% cho thấy, việc chuyển đổi sử dụng thẻ chip đang diễn ra nhanh chóng. Thông tin tại diễn đàn cho biết, tăng 1% người sử dụng thẻ chip có thể tăng thêm 4% GDP.
Đề cập về lợi ích thẻ chip mang lại cho khách hàng, ông Lân chia sẻ, thứ nhất, đó là an toàn bảo mật thông tin. Với việc mã hóa thông tin trên thẻ chip, cơ chế xử lý khác với thẻ từ giúp chống giả mạo, sao chép thông tin thẻ.
Vì thế, khách hàng có thể yên tâm khi sử dụng thẻ chip hơn thẻ từ. Thứ hai, việc thanh toán được thực hiện nhanh chóng, dễ dàng.
Đặc biệt, với thẻ chip có gắn chức năng phi tiếp xúc, giao dịch 1 chạm mang lại sự thuận lợi, nâng cao trải nghiệm của khách hàng và giúp tăng cường thói quen không dùng tiền mặt.
“Ngoài ra, thông qua bộ nhớ, thẻ chip có thể lưu trữ thông tin cá nhân, thông tin bảo hiểm, thông tin ứng dụng kết nối mở rộng thanh toán tới các lĩnh vực, hướng tới trở thành chiếc thẻ đa năng trong tương lai”, ông Lân nhấn mạnh.
Vẫn cần những động thái quyết liệt hơn
Phát biểu tại diễn đàn, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam nhớ lại, cách đây khoảng 30 năm, thế giới có công nghệ GSM, những nước trong khu vực châu Á như Thái Lan, Malaysia dùng công nghệ tương tự và sẵn sàng chuyển giao không mất tiền cho Việt Nam.
Tuy nhiên, chúng ta đã cân nhắc, từ chối để đi thẳng vào công nghệ GSM. Nhờ vậy, khi triển khai GSM 2G, Việt Nam là một trong những nước tiên phong và có kết quả.
Phó Thủ tướng chia sẻ, ngày đó, công dân Hà Nội và TP.HCM có các bốt điện thoại, dạng màu vàng, thẻ từ là của Malaysia và dùng thẻ màu xanh, thẻ chip của Đức - Pháp hợp tác.
Có ý kiến ví von, điện thoại dùng thẻ từ tương tự như đánh máy ra rồi photo rồi gửi thư qua bưu điện, còn điện thoại dùng thẻ chip đánh máy dùng máy fax chuyển đi khắp nơi (vì chưa có Internet).
“Phải chăng bây giờ chúng ta cũng tương tự như vậy? Giữa công nghệ thẻ chip và thẻ từ, chúng ta có thể bàn về công nghệ, nhưng chắc chắn nếu mạnh dạn tiến thẳng lên một bước thì sẽ không bị lỡ nhịp. Tôi có thể nói đến giờ phút này chúng ta cũng đã bị chậm”, Phó Thủ tướng nói.
Vẫn còn những khó khăn đối với Việt Nam, ông Greg Pote, Chủ tịch Hiệp hội Ngành công nghiệp thanh toán và nhận dạng châu Á (APSCA) nêu quan điểm, để áp dụng thẻ chip, cần có hạ tầng để đáp ứng các nhu cầu; cần những điểm để chấp nhận cả thẻ tiếp xúc và không tiếp xúc, đồng thời cần có sự chuyển đổi, mở rộng trong mạng lưới, chính sách phù hợp với các ngân hàng,
“Trong việc ứng dụng công nghệ thẻ chip, Việt Nam đối mặt với những thách thức như học hỏi sự chuyển đổi thành công từ các quốc gia láng giềng; công tác truyền thông, giáo dục cho người tiêu dùng hay các cơ quan, ngân hàng, đơn vị bán lẻ…
Đó là một hành trình dài cần sự bền bỉ, quyết tâm mạnh mẽ của các chủ thể liên quan, song đây là xu hướng không thể cưỡng lại”, bà Đặng Tuyết Dung chia sẻ.
Theo Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam, việc đẩy mạnh thanh toán không tiền mặt không còn đơn thuần như trước đây là nhằm tăng sự luân chuyển đồng vốn trong toàn xã hội, không để đồng tiền bị chết, không chỉ là vấn đề minh bạch chống rửa tiền, tham nhũng, mà nếu làm tốt thì sẽ thúc đẩy nền kinh tế Internet lên.
“Việt Nam đã quyết liệt triển khai thanh toán lương qua tài khoản ngân hàng. Giờ nhiều nông dân, người nghèo vẫn nghĩ rằng có tài khoản là cái gì đó không dành cho mình, thì đây là nhiệm vụ của tất cả chúng ta, bao gồm các tổ chức tín dụng và đơn vị truyền thông.
Chúng ta phải đẩy mạnh công nghệ, tiến tới tất cả các thông tin được tích hợp, từ nhân thân, bảo hiểm, y tế… tới ngân hàng phải được liên thông và kết nối.
Và để làm được, chúng ta còn phải cố gắng rất nhiều, kể cả việc xem xét thời điểm và cùng với đó là chương trình mọi người dân dù nghèo đều phải có smartphone. Phải vận động giải thích người dân cùng tham gia”, Phó Thủ tướng nhấn mạnh.
Hiện tại, thẻ ngân hàng đã và đang trở thành phương tiện thanh toán được người dân Việt Nam sử dụng phổ biến, được các ngân hàng chú trọng phát triển, tăng cường tính năng, tiện ích sử dụng và đạt tốc độ tăng trưởng cao (trong 9 tháng đầu năm 2019, giá trị giao dịch qua POS tăng 36,5% so với cùng kỳ năm 2018).
Thông tin từ NHNN cho biết, tính đến cuối tháng 9/2019, số lượng thẻ lưu hành trên cả nước đạt trên 96,4 triệu thẻ, với 56 tổ chức phát hành với rất nhiều thương hiệu thẻ khác nhau, trong đó thẻ ghi nợ nội địa vẫn chiếm tỷ lệ áp đảo trên 90% tổng lượng thẻ lưu hành…
Bên cạnh đó, cơ sở hạ tầng phục vụ thanh toán thẻ được các ngân hàng chú trọng đầu tư, mở rộng, với trên 18.900 điểm ATM và trên 275.600 thiết bị chấp nhận thẻ (POS) được lắp đặt.
Hạ tầng và dịch vụ thẻ phát triển mạnh mẽ làm gia tăng đáng kể số lượng khách hàng, số lượng tài khoản ngân hàng và làm cơ sở để thúc đẩy các dịch vụ, phương tiện thanh toán điện tử mới, hiện đại, ứng dụng công nghệ cao đi kèm như ví điện tử, Mobile Banking, Internet Banking…, qua đó đáp ứng được nhu cầu thanh toán ngày càng cao của khách hàng, góp phần thúc đẩy thương mại điện tử phát triển, phù hợp với xu thế thanh toán trong khu vực và trên thế giới.
“Những năm trước, Chính phủ đã chỉ đạo rõ ràng là tiền thuế, bảo hiểm, điện lực viễn thông phải thanh toán không dùng tiền mặt. Đầu năm nay, Chính phủ yêu cầu thêm 2 ngành liên quan đến người dân nhiều nhất là giáo dục, y tế cũng phải triển khai thanh toán điện tử… để mở rộng hơn nữa hệ sinh thái không dùng tiền mặt”, Phó Thủ tướng khẳng định.