Nếu mở rộng khái niệm DNNN, sẽ có thêm ít nhất 1.280 công ty cổ phần “khoác áo” DNNN

Nếu mở rộng khái niệm DNNN, sẽ có thêm ít nhất 1.280 công ty cổ phần “khoác áo” DNNN

Định dạng lại doanh nghiệp nhà nước, cảnh báo nhiều hệ lụy

(ĐTCK) Nhiều doanh nghiệp đang phấp phỏng chờ đợi phương án sửa đổi khái niệm doanh nghiệp nhà nước (DNNN) được chốt lại, bởi một khi quyết định cuối cùng được đưa ra, bức tranh doanh nghiệp nói chung và khu vực DNNN nói riêng rất có thể sẽ có sự thay đổi lớn, từ đó tác động trực tiếp tới doanh nghiệp và nhà đầu tư.

Số lượng doanh nghiệp sẽ tăng

Ông Phạm Đức Trung, Trưởng ban Nghiên cứu cải cách và phát triển doanh nghiệp, Viện Nghiên cứu và quản lý kinh tế Trung ương (CIEM) cho biết, nếu sửa đổi khái niệm DNNN như dự thảo thì ngay lập tức số lượng DNNN sẽ tăng lên.

Số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy, tính đến đầu năm 2018, tổng số doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thuộc mọi cấp quản lý là 1.204 doanh nghiệp. Bên cạnh đó, số công ty cổ phần có cổ phần nhà nước trên 50% thuộc mọi cấp độ bao gồm cả công ty con các cấp của các tập đoàn, tổng công ty nhà nước là 1.282 doanh nghiệp. Nếu mở rộng khái niệm DNNN thì theo tính toán của CIEM, sẽ có thêm ít nhất 1.280 công ty cổ phần “khoác áo” DNNN.

Điều đáng nói là số doanh nghiệp tăng lên này sẽ trở thành đối tượng điều chỉnh của pháp luật về DNNN, theo đó chịu tác động trực tiếp của nhiều luật mà trước đây không bị chi phối.

Cụ thể, có 9 luật hiện hành quy định về chủ thể DNNN bao gồm Luật Đấu thầu, Luật Xây dựng, Luật Ngân sách nhà nước, Luật Quản lý tài sản công. Luật Tiếp cận thông tin, Bộ luật Dân sự, Luật Thủy lợi, Luật Lâm nghiệp và Luật Kiểm toán nhà nước, trong đó 3 luật chắc chắn sẽ có tác động trực tiếp ngay đối với toàn bộ số doanh nghiệp tăng thêm là Luật Đấu thầu, Luật Xây dựng, Luật Ngân sách nhà nước. Ngoài ra, các văn bản, quy định khác cũng sẽ tác động tới hoạt động của doanh nghiệp cũng như về mặt pháp lý.

Sẽ cân nhắc kỹ các phương án sửa đổi

Hiện nay, có 4 phương án được đưa ra để cân nhắc xem xét định dạng DNNN: một là xét trên tiêu chí cổ phần, vốn góp chi phối của Nhà nước, trong đó tỷ lệ trên 65% vốn điều lệ là mức chi phối tuyệt đối, quyết định mọi vấn đề; hai là, tỷ lệ trên 50% vốn điều lệ là mức chi phối chủ động, quyết định phần lớn các vấn đề của doanh nghiệp, trong đó có các vấn đề về nhân sự, điều lệ; ba là, trên 35% vốn nhà nước đã được coi là DNNN vì có quyền phủ quyết định hướng doanh nghiệp; bốn là, chỉ cần có vốn nhà nước, có quyền trực tiếp, gián tiếp bổ nhiệm thành viên hội đồng quản trị, tổng giám đốc, quyết định những vấn đề lớn không phụ thuộc vào tỷ lệ sở hữu vốn.

Các phương án mở rộng khái niệm đối tượng là DNNN đang tạo ra nhiều tranh luận trái chiều cũng như tâm lý lo ngại ảnh hưởng, nhất là đối với các doanh nghiệp có vốn nhà nước chi phối. Do đó, theo ông Phan Đức Hiếu, Phó viện trưởng CIEM, đại diện Ban soạn thảo Luật Doanh nghiệp sửa đổi, phương án lựa chọn sẽ được cân nhắc cẩn trọng và dựa trên đánh giá tác động thực tế.

Hiện nay, Ban soạn thảo đang xem xét theo hướng đề xuất phân thành 2 loại DNNN, đó là giữ nguyên doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn và đề xuất doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ chi phối trên 50%.

“Đối với mỗi loại DNNN, cần có phương thức quản lý, giám sát phù hợp, nhằm cụ thể hóa mục tiêu của Nghị quyết đề ra về cải cách DNNN”, ông Hiếu nói.

Cảnh báo nhiều hệ lụy

Dù với phương án nào thì với những tác động ngay và trực tiếp khi điều chỉnh, theo đại diện CIEM, phải được làm rõ 2 vấn đề khi lựa chọn quy định về quyền chi phối, đó là thế nào là cổ phần, vốn góp chi phối và xác định rõ ai là nhà nước trong khái niệm DNNN.

“Việc xác định để đưa ra phương án điều chỉnh cuối cùng cần cân nhắc tâm lý của thị trường, nhà đầu tư, các cổ đông hiện hữu, đặc biệt là nếu tính tới phương án mở rộng tối đa khái niệm DNNN tới mức tỷ lệ 35% vốn nhà nước thì phải cân nhắc đến phản ứng của nhà đầu tư có thể không tích cực. Thậm chí, ở nhiều doanh nghiệp, nhà đầu tư hiện đã nắm trên 50% vốn mà Nhà nước có quyền quyết định thì sẽ gây tâm lý tiêu cực, có thể khiến nhà đầu tư thoái vốn, gây tác động lớn tới thị trường”, ông Phạm Đức Trung nhấn mạnh.

Mặt khác, theo đại diện CIEM, dưới góc độ chủ thể thực hiện quyền sở hữu nhà nước để xác định rõ chủ thể ai là nhà nước cần phải giải quyết được vấn đề thế nào là cổ phần nhà nước.

Ông Trung cho biết, liên quan tiêu chí này, câu hỏi mà các doanh nghiệp thường nêu lên hiện nay là các công ty con cấp 1, 2, 3… của tập đoàn, tổng công ty, nhóm công ty mẹ - con nhà nước có được xác định là DNNN, nếu do một DNNN giữ cổ phần chi phối như Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC), hoặc doanh nghiệp do công ty nhà nước cấp 2 nắm giữ cổ phần thì có phải là DNNN, nếu không phải DNNN thì là doanh nghiệp loại gì?

“Để làm rõ được chủ thể ai là nhà nước trong trường hợp này, vấn đề đặt ra là phải xác định địa vị pháp lý của doanh nghiệp. Chỉ khi nào cơ quan nhà nước trực tiếp làm đại diện chủ sở hữu thì mới nên gọi là DNNN, còn doanh nghiệp cấp thấp hơn thì nên gọi là công ty có cổ phần nhà nước”, ông Trung nói cho rằng, không nên quy định chung chung, mà nên theo hình thức pháp lý, công ty có cổ phần nhà nước.

E ngại sẽ có sự xáo trộn đối với các cổ đông, nội bộ doanh nghiệp, từ đó ảnh hưởng tới doanh nghiệp đã cổ phần hóa cũng như sắp cổ phần hóa, khiến tiến trình tái cơ cấu DNNN đã khó lại càng khó hơn là vấn đề mà luật sư Phan Vũ Anh, Đoàn Luật sư Hà Nội đặt ra.

Ông Vũ Anh cho rằng, nếu mở rộng khái niệm DNNN thì tiến trình cổ phần hóa, đổi mới doanh nghiệp sẽ bị ảnh hưởng, bởi chỉ nguyên việc xử lý, sắp xếp tài sản công, định giá tài sản, đất đai cũng đã thêm rối rắm, phức tạp, chưa kể đến hàng loạt vấn đề có thể phát sinh trong nội bộ cơ cấu doanh nghiệp.

“Trước đây không coi là DNNN thì sẽ do cơ chế đại hội đồng cổ đông quyết định, có ban kiểm soát, cổ đông có các quyền biểu quyết trong doanh nghiệp, thậm chí quyền phủ quyết. Giờ nếu mở rộng toàn bộ doanh nghiệp trên 50% vốn nhà nước cũng trở thành DNNN, vào cùng sân chơi với doanh nghiệp 100% vốn nhà nước thì sẽ vi phạm ngay quyền biểu quyết của các cổ đông, chính là những người mà ta đang khuyến khích bỏ tiền ra mua cổ phần khi muốn thu hút nhà đầu tư tham gia cổ phần hóa”, ông Vũ Anh phân tích.

Một vấn đề khác được chuyên gia này đặc biệt lưu tâm là việc mở rộng đối tượng DNNN sẽ có thể tạo ra những hệ lụy trong quá trình cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước và tác động tới thị trường vốn.

“Với cách mở rộng này, đưa doanh nghiệp có trên 50% vốn nhà nước thành DNNN, nhiều doanh nghiệp sẽ cố chứng minh rằng, lĩnh vực đang hoạt động, Nhà nước không cần nắm chi phối, chỉ 36% chẳng hạn, thì các quy định cũng không có ý nghĩa nữa. Còn những doanh nghiệp mà Nhà nước đang nắm chi phối sẽ tìm mọi cách thúc đẩy thoái vốn để thoát khỏi cái áo DNNN. Thị trường chứng khoán sẽ bị tác động, nhiều dòng vốn có thể rời thị trường Việt Nam”, ông Vũ Anh cảnh báo.

Ông Vũ Anh đề xuất, không nên giới hạn tỷ lệ để đưa ra khái niệm DNNN một cách cứng nhắc, máy móc, dựa trên tỷ lệ sở hữu, mà cần quản lý thật chặt phần nhà nước sở hữu, đồng thời giảm số lượng DNNN mà Nhà nước nắm chi phối.

Ông Cao Đạt Khoa, Trưởng ban Quản lý đầu tư vốn, Tập đoàn Điện lực Việt Nam

Khi nói DNNN thì cần phân loại và làm rõ các tiêu chí, bởi nó sẽ ảnh hưởng lớn tới công tác quản trị, điều hành và chi phối hiệu quả của doanh nghiệp. Hiện nay, có một thực tế là khi làm việc, các đối tác đều “ngán” DNNN, vì ra quyết định rất lâu do liên quan đến hàng loạt thủ tục hành chính, chịu sự chi phối của rất nhiều luật và quy định. Rõ ràng, với khái niệm mở rộng thì nhiều DNNN sẽ phát sinh. Nhận dạng thế nào là DNNN để không gây hệ lụy tới doanh nghiệp là vấn đề quan trọng đặt ra. Mặt khác, cần cân nhắc thực tế là với cách thức quản trị, điều hành hiện nay thì DNNN sẽ kém đi không? Cần có nghiên cứu đánh giá được tác động về mặt định lượng để đảm bảo tính thuyết phục của các phương án đưa ra.

Ông Hoàng Trường Giang, Vụ Kinh tế tổng hợp, Ban Kinh tế Trung ương  

Mục tiêu đến năm 2020, cơ bản thoái toàn bộ vốn ở những doanh nghiệp mà Nhà nước sở hữu dưới 50% vốn trong những lĩnh vực Nhà nước không cần nắm giữ. Nếu hoàn thành được mục tiêu này thì thực tế các doanh nghiệp đó đã trở thành doanh nghiệp tư nhân, nên giả sử có quy định DNNN là doanh nghiệp mà Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn thì cũng không ảnh hưởng, vì số lượng các DNNN không còn nhiều.

Vì vậy, với tiêu chí tỷ lệ phần trăm Nhà nước nắm giữ cổ phần, tôi cho rằng, có thể cân nhắc tỷ lệ Nhà nước nắm giữ 51% và 65% vốn điều lệ trở lên. Ở tỷ lệ 65% thì số lượng DNNN sẽ giảm đi và tập trung vào những lĩnh vực quan trọng mà Nhà nước cần nắm giữ. Đối với việc xác định vốn công ty con, cháu, cần có công thức tính toán rõ ràng tránh để tình trạng luật ban hành rồi lại phải giải thích rất phức tạp.

Tin bài liên quan