Luật Doanh nghiệp đã có quy định về quyền khởi kiện lãnh đạo doanh nghiệp của cổ đông nhỏ, nhưng thực tế những vụ việc này ít diễn ra. Theo ông, đâu là nguyên nhân?
Theo Luật Doanh nghiệp năm 2014 thì cổ đông, nhóm cổ đông sở hữu ít nhất 1% số cổ phần phổ thông liên tục trong thời hạn 6 tháng có quyền tự mình hoặc nhân danh công ty khởi kiện trách nhiệm dân sự đối với thành viên hội đồng quản trị, giám đốc hoặc tổng giám đốc. Luật Doanh nghiệp 2020 đã bỏ yêu cầu thời hạn nắm giữ 6 tháng đối với quyền khởi kiện nêu trên.
Luật sư Phạm Văn Phất, Công ty Luật An Phát Phạm |
Tuy nhiên, trở ngại lớn nhất đối với các cổ đông, đặc biệt là các cổ đông nhỏ, lại không nằm ở điều kiện về thời gian nắm giữ cổ phần mà là họ không có được các thông tin cập nhật kịp thời và khó tiếp cận các tài liệu liên quan đến hoạt động của hội đồng quản trị, giám đốc hoặc tổng giám đốc, để mà biết được ai đã làm sai và gây thiệt hại cho công ty như thế nào.
Nếu không nắm được các thông tin, tài liệu ấy thì quyền khởi kiện của cổ đông cũng chỉ là quyền được ghi nhận trong luật. Bởi theo Bộ luật Tố tụng dân sự thì người khởi kiện có nghĩa vụ chứng minh yêu cầu khởi kiện của mình là có căn cứ và hợp pháp.
Theo quy tắc tố tụng, hành vi được xác định gây hậu quả là phải có thiệt hại vật chất. Vậy pháp luật quy định như thế nào về việc tính toán các thiệt hại khác như việc người quản lý không triển khai nghị quyết dẫn đến dự án bị chậm trễ, nợ xấu ngân hàng hoặc chậm trễ họp đại hội cổ đông dẫn đến cổ phiếu bị hạn chế giao dịch…?
Việc tính toán thiệt hại về tài sản sẽ phải áp dụng các quy định tương ứng của Bộ luật Dân sự, trong đó có cả nguyên tắc áp dụng tương tự pháp luật.
Theo quy định tại khoản 1, Điều 6, Bộ luật Dân sự 2015, trường hợp phát sinh quan hệ thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật dân sự mà các bên không có thoả thuận, pháp luật không có quy định và không có tập quán được áp dụng thì áp dụng quy định của pháp luật điều chỉnh quan hệ dân sự tương tự.
Đơn cử trường hợp một dự án nhà ở thương mại hoặc dự án bất động sản có sản phẩm là nhà ở hoặc bất động sản để bán, cho thuê, kinh doanh bị gián đoạn trong giai đoạn thực hiện do lỗi của giám đốc. Sự gián đoạn trong giai đoạn thực hiện dự án khiến cho chủ đầu tư chậm nhận được tiền bán hàng.
Do đó, cũng có thể áp dụng tương tự pháp luật với trường hợp chậm thực hiện nghĩa vụ trả tiền (Điều 357, Bộ luật Dân sự 2015), trong đó số tiền chậm nhận lại được tính tối thiểu là tổng số tiền mà chủ đầu tư đã rót vào dự án tính đến thời điểm dự án bắt đầu bị gián đoạn và thời gian chậm nhận lại được tiền (người có lỗi gây ra sự gián đoạn chậm trả) chính là tổng thời gian bị gián đoạn cộng dồn.
Song trên thực tế, khi giải quyết các vụ án thẩm phán thường có tâm lý e ngại bước ra khỏi lối mòn nên không dễ để thuyết phục họ vận dụng nguyên tắc áp dụng tương tự pháp luật. Đây cũng là một trở ngại đáng kể đối với các cổ đông khi thực hiện quyền khởi kiện người quản lý.
Ở góc độ khác, nếu cứ căn cứ vào các quyết định xử phạt hành chính để “quàng” trách nhiệm cho người quản lý thì liệu có hợp lý không?
Người quản lý chỉ phải chịu trách nhiệm về thiệt hại đối với công ty trong các trường hợp mà Luật Doanh nghiệp có quy định, chứ không phải cứ công ty có thiệt hại là “quàng” trách nhiệm cho người quản lý.
Ví dụ, khi giám đốc công ty cổ phần không thực hiện, thực hiện không đầy đủ, thực hiện không kịp thời hoặc thực hiện trái với quy định của pháp luật hoặc điều lệ công ty, nghị quyết, quyết định của hội đồng quản trị đối với quyền và nghĩa vụ được giao dẫn đến việc công bị bị xử phạt hành chính.
Nhìn vào các trường hợp cổ đông đòi giám đốc công ty bồi thường, ông có lưu ý gì với người quản lý doanh nghiệp?
Để tránh trở thành đối tượng bị cổ đông, thành viên công ty khởi kiện trách nhiệm dân sự thì người quản lý doanh nghiệp trước hết cần phải nắm chắc và thực hiện nghiêm túc các quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm mà Luật Doanh nghiệp, điều lệ công ty quy định với vị trí quản lý của mình tương ứng với từng loại hình doanh nghiệp.
Trong đó, có khá nhiều trách nhiệm không dễ đánh giá như “trung thực, cẩn trọng, tốt nhất nhằm bảo đảm lợi ích hợp pháp tối đa của công ty”, “trung thành” với lợi ích của công ty...
Đối với những giao dịch có ảnh hưởng đáng kể đến nghĩa vụ, quyền lợi của công ty hoặc những lĩnh vực vượt quá phạm vi chuyên môn của người quản lý thì tốt nhất là thuê tư vấn để hỗ trợ.