Chuyển động thị trường:
- TTCK Việt Nam tăng điểm: Dù vượt qua ngưỡng cản mạnh tại mốc 600 điểm nhưng thị trường dường như vẫn đuối sức trước ngưỡng cản quan trọng này.
Ngay đầu phiên sáng, với sự hào hứng của nhà đầu tư, VN-Index nhanh chóng vượt qua 600 điểm một cách dễ dàng. Tuy nhiên, áp lực cung khiến chỉ số này không còn trụ vững và có chiều hướng đi xuống. Diễn biến sẽ không có gì thay đổi so với những lần VN-Index chạm mốc 600 điểm trước đó nếu không có sự hỗ trợ mạnh từ VNM, VIC, đặc biệt là GAS vào những phút cuối phiên.
Kết thúc phiên giao dịch đầu tuần, VN-Index tăng 4,78 điểm (+0,8%) lên 601,04 điểm. Chỉ số HNX-Index giảm 0,47 điểm (-0,58%) xuốn 80,67 điểm.
- Thị trường chứng khoán Mỹ hồi phục. Sau khi hoảng loạn trước thông tin về vụ 1 máy bay của hãng hàng không Malaysia bị bắn rơi, các nhà đầu tư đã quay trở lại với chứng khoán giúp phố Wall lấy lại gần như những gì đã mất trong phiên hôm thứ Năm (17/7).
Kết thúc phiên giao dịch gần nhất (sáng sớm hôm 19/7 theo giờ Việt Nam) chỉ số công nghiệp Dow Jones (DJI) tăng 123,37 điểm (+0,73%), lên 17.100,18 điểm; chỉ số S&P 500 tăng 20,10 điểm (+1,03%), lên 1.978,22 điểm; chỉ số công nghệ Nasdaq Composite tăng 68,70 điểm (+1,57%), lên 4.432,15 điểm.
- TTCK châu Á tăng giảm đan xen, trong đó, 2 chỉ số chứng khoán tại 2 thị trường lớn trong khu vực là Hồng Kong và Trung Quốc đều giảm điểm. Cụ thể, chỉ số Hang Seng trên TTCK Hồng Kong giảm 0,29%; chỉ số Shanghai Composite Index trên TTCK Trung Quốc giảm 0,22%. Hôm nay, TTCK Nhật Bản đóng cửa nghỉ lễ.
Giá vàng SJC giảm 10.000 đồng/lượng. Giá vàng trong nước biến động trong khoảng hẹp. Đầu giờ, giá vàng SJC niêm yết 36.70 – 36.82 triệu đồng/lượng, giảm 40.000 đồng/lượng so với cuối tuần trước. Sau đó, giá vàng nhích nhẹ, đến cuối ngày, giá vàng quốc gia niêm yết tại mức giá 36.73 – 36.85 triệu đồng/lượng, giảm 10.000 đồng lượng so với cuối tuần trước.
Trong khi đó, giá của kim loại quý này giao dịch trên thị trường châu Á đầu giờ sáng nay (theo giờ Việt Nam) cũng không có nhiều biến động, giao dịch quanh mốc 1.310 USD/oz. Hiện giá vàng đang giao dịch trên sàn Comex tại mức giá 1.312,4 USD/oz, tăng 1,6 USD/oz so với giá đóng cửa cuối tuần trước.
Do xu hướng giá vàng chỉ tăng trong thời gian ngắn trước các sự kiện địa chính trị, nhiều nhà phân tích cảnh báo giới đầu tư vàng giá lên không nên quá hưng phấn.
Các nhà phân tích của UBS nhận định “Khủng hoảng tại Ukraine và Iraq đã khích lệ hoạt động mua vàng trong năm nay, nhưng ảnh hưởng không đều và chỉ ở mức vừa phải. Về bản chất, đây không phải là yếu tố chính giúp giá vàng tăng; giá vàng tăng trong năm nay chủ yếu dựa vào nhu cầu tài sản trú ẩn an toàn, nhưng các đợt tăng giá trong năm nay chỉ diễn ra trong thời gian ngắn, và lần này cũng vậy”.
Trên thị trường ngoại hối, sau khi tăng vào cuối tuần trước, tỷ giá USD/VND hôm nay có chiều hướng giảm nhẹ từ 5-10 đồng. Riêng tại ngân hàng ACB, giá bán USD tăng 5 đồng/USD. Tỷ giá niêm yết tại một số ngân hàng:
Ngân hàng |
Tỷ giá (đồng/USD) |
Tăng giảm (đồng/USD) |
||
Mua vào |
Bán ra |
Mua vào |
Bán ra |
|
Vietcombank |
21.185 |
21.235 |
-10 |
-10 |
BIDV |
21.190 |
21.240 |
- |
-10 |
Vietinbank |
21.180 |
21.240 |
-5 |
-5 |
Argibank |
21.165 |
21.230 |
- |
|
Techcombank |
21.170 |
21.260 |
+10 |
- |
Eximbank |
21.170 |
21.250 |
-10 |
- |
MBB |
21.150 |
21.240 |
- |
-10 |
ACB |
21.175 |
21.255 |
-5 |
+5 |
Sở GD NHNN |
21.200 |
21.400 |
- |
- |
Tỷ giá bình quân liên ngân hàng: 1USD = 21.246 đồng |
- Thị trường trái phiếu thứ cấp tại Sở GDCK Hà Nội hôm nay có tổng cộng 23,5 triệu trái phiếu, trị giá 2.474 tỷ đồng được giao dịch, cụ thể như sau (xem bảng).
Mã TP |
Thời hạn |
Lợi suất |
KLGD |
GTGD |
TD1315007 |
12 Tháng |
4,7801 |
500.000 |
54.572.500.000 |
TD1416061 |
12 Tháng |
5,0997 |
500.000 |
52.917.000.000 |
TD1215133 |
12 Tháng |
5,0497 |
1.000.000 |
113.247.000.000 |
TD1316019 |
2 Năm |
5,42 |
500.000 |
55.005.500.000 |
TD1316019 |
2 Năm |
5,42 |
500.000 |
55.005.500.000 |
TD1416063 |
2 Năm |
5,1997 |
500.000 |
51.861.500.000 |
TD1316017 |
2 Năm |
5,3197 |
500.000 |
51.657.500.000 |
TD1316016 |
2 Năm |
5,3001 |
500.000 |
52.745.000.000 |
TD1316016 |
2 Năm |
5,32 |
500.000 |
52.728.000.000 |
TD1316019 |
2 Năm |
5,4301 |
500.000 |
54.994.500.000 |
TD1318024 |
3 - 5 Năm |
6,1801 |
500.000 |
54.704.000.000 |
TD1318024 |
3 - 5 Năm |
6,13 |
500.000 |
54.789.500.000 |
TD1318027 |
3 - 5 Năm |
6,5499 |
1.000.000 |
112.287.000.000 |
BVDB13296 |
3 - 5 Năm |
7,04 |
500.000 |
57.075.000.000 |
TD1417076 |
3 Năm |
5,6798 |
1.000.000 |
102.641.000.000 |
TD1417079 |
3 Năm |
5,7499 |
500.000 |
50.121.000.000 |
TD1417075 |
3 Năm |
5,7501 |
500.000 |
51.351.000.000 |
TD1417079 |
3 Năm |
5,7499 |
500.000 |
50.121.000.000 |
TD1417079 |
3 Năm |
5,8001 |
500.000 |
50.054.000.000 |
TD1417075 |
3 Năm |
5,6999 |
500.000 |
51.412.500.000 |
TD1417078 |
3 Năm |
5,7499 |
1.000.000 |
101.281.000.000 |
TD1417077 |
3 Năm |
5,7199 |
500.000 |
50.901.000.000 |
TD1318021 |
3 Năm |
6,0399 |
500.000 |
57.349.500.000 |
BVBS12124 |
3 Năm |
6,6 |
1.000.000 |
119.704.000.000 |
TD1417075 |
3 Năm |
5,6999 |
500.000 |
51.412.500.000 |
TD1417077 |
3 Năm |
5,7399 |
500.000 |
50.875.500.000 |
TD1419087 |
5 Năm |
6,8301 |
500.000 |
50.207.500.000 |
TD1419087 |
5 Năm |
6,87 |
500.000 |
50.125.500.000 |
TD1419085 |
5 Năm |
6,7499 |
500.000 |
51.343.500.000 |
TD1419087 |
5 Năm |
6,8501 |
500.000 |
50.166.500.000 |
TD1419087 |
5 Năm |
6,86 |
1.000.000 |
100.292.000.000 |
TD1419087 |
5 Năm |
6,87 |
500.000 |
50.125.500.000 |
TD1419082 |
5 Năm |
6,7 |
1.000.000 |
107.929.000.000 |
TD1419087 |
5 Năm |
6,88 |
500.000 |
50.105.000.000 |
TD1419087 |
5 Năm |
6,8 |
500.000 |
50.269.500.000 |
TD1419087 |
5 Năm |
6,8 |
1.000.000 |
100.539.000.000 |
TD1419087 |
5 Năm |
6,7801 |
1.000.000 |
100.621.000.000 |
TD1419085 |
5 Năm |
6,7101 |
500.000 |
51.424.000.000 |
Diễn biến khác:
- Cục Thống kêHàNội vừa công bốchỉ số tiêu dùng (CPI) tháng 7/2014. Theo đó chỉ số này tăng 0,18% so với tháng trước và tăng 6,39% so với cùng kỳ năm trước. Tính từ đầu năm, CPI của Hà Nội đã tăng 1,34%. Trong đó, nhóm có quyền sốcao nhất là hàng ăn vàdịch vụăn uống hầu nhưkhông tăng so với tháng trước khi đạt mức 0,01%.
- Cũng theo Cục thống kê Hà Nội, tổng nguồn vốn huy động của các TCTD trên địa bàn trong tháng 7/2014 ước đạt gần 1.140 nghìn tỷ đồng, tăng 2,7% so tháng trước và tăng 8,9% so với tháng 12/2013. Tổng dư nợ cho vay ước tính gần 927 nghìn tỷ đồng, tăng 0,5% so tháng trước và giảm 2% so tháng 12/2013, trong đó dư nợ ngắn hạn giảm 1,3% và giảm 8,3%, dư nợ trung và dài hạn tăng 4,1% và 12,1%.
- Ngân hàng TMCP Công thương Việt Nam (VietinBank) cam kết tài trợ 5.909 tỷ cho dự án Đầu tư nâng cấp tuyến đường Pháp Vân - Cầu Giẽ theo hình thức BOT trên tổng mức đầu tư gần 7.000 tỷ đồng. Chi nhánh Vietinbank - Hai Bà Trưng sẽ là đầu mối triển khai. Dự án này được thi công trên tổng chiều dài 29 km, có tổng mức đầu tư là 6.732 tỷ đồng và được chia làm 2 giai đoạn. Theo kế hoạch, tuyến đường Pháp Vân – Cầu Giẽ được mở rộng thành đường cao tốc 6 làn xe cơ giới và dự kiến đưa vào khai thác đầu năm 2018.