Thay chủ tịch HĐQT phải xin ý kiến các thành viên HĐQT?

Tôi là thành viên HĐQT của một CTCP được cổ phần hoá từ năm 2007, có vốn điều lệ dưới 10 tỷ đồng, dưới 100 cổ đông. Từ đó đến nay, Công ty đã thay đến 3 đời chủ tịch HĐQT từ 3 lần chuyển nhượng cổ phần. Tại mỗi lần thay đổi này, tôi đều không được xin ý kiến chính thức bằng văn bản. Xin hỏi, pháp luật có quy định bắt buộc việc thay đổi chủ tịch HĐQT phải xin ý kiến các thành viên HĐQT hay không?

Trả lời:

Tại khoản 1 Điều 111 Luật Doanh nghiệp quy định: “ĐHCĐ hoặc HĐQT bầu chủ tịch HĐQT theo quy định tại điều lệ công ty”. Như vậy, nếu điều lệ công ty bạn quy định việc bầu chủ tịch HĐQT thuộc thẩm quyền của ĐHCĐ thì không phải xin ý kiến của thành viên HĐQT, ĐHCĐ sẽ tiến hành bầu chủ tịch HĐQT.

Nếu điều lệ công ty bạn quy định HĐQT bầu chủ tịch HĐQT thì chủ tịch HĐQT được bầu trong số thành viên HĐQT. Theo đó, việc bầu chủ tịch HĐQT bắt buộc phải được thông báo cho các thành viên HĐQT. Các thành viên HĐQT sẽ bầu chủ tịch HĐQT bằng cách biểu quyết tại cuộc họp theo nguyên tắc đa số, lấy ý kiến bằng văn bản hoặc hình thức khác do điều lệ công ty quy định. Mỗi thành viên HĐQT có một phiếu biểu quyết. Nêu rơi vào trường hợp này, công ty của bạn bầu chủ tịch HĐQT mà không xin ý kiến của thành viên HĐQT là trái với quy định của điều lệ công ty bạn và không phù hợp với Luật Doanh nghiệp.

Khoản 5, Điều 84 Luật Doanh nghiệp quy định: “Trong thời hạn 3 năm, kể từ ngày công ty được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, cổ đông sáng lập có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần phổ thông của mình cho cổ đông sáng lập khác, nhưng chỉ được chuyển nhượng cổ phần phổ thông của mình cho người không phải là cổ đông sáng lập nếu được sự chấp thuận của ĐHCĐ. Trong trường hợp này, cổ đông dự định chuyển nhượng cổ phần không có quyền biểu quyết về việc chuyển nhượng các cổ phần đó và người nhận chuyển nhượng đương nhiên trở thành cổ đông sáng lập của công ty. Sau thời hạn 3 năm, kể từ ngày công ty được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, các hạn chế đối với cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập đều được bãi bỏ”.

Như vậy, nếu chủ tịch và thành viên HĐQT không phải là cổ đông sáng lập của công ty thì Luật Doanh nghiệp không có quy định nào cấm hay hạn chế đối với việc chuyển nhượng cổ phần mà họ sở hữu tại bất kỳ thời điểm nào, khi họ còn đương nhiệm hay không.

Nếu chủ tịch và thành viên HĐQT là cổ đông sáng lập của công ty thì họ bị hạn chế chuyển nhượng cổ phần phổ thông theo quy định tại Khoản 5, Điều 84 nêu trên.