Do ý kiến còn khác nhau về việc bỏ sổ hộ khẩu giấy, nên Dự thảo Luật Cư trú (sửa đổi) đưa ra 2 phương án trình Quốc hội quyết định.
Luật Cư trú (sửa đổi) dự kiến có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2021, nhưng có thể sổ hộ khẩu, sổ tạm trú đã được cấp vẫn được sử dụng và có giá trị như giấy tờ, tài liệu xác nhận về cư trú cho đến hết ngày 31/12/2022.
Tại kỳ họp thứ 9 (tháng 5/2020), Quốc hội đã thảo luận, cho ý kiến về Dự án Luật Cư trú (sửa đổi) với chính sách lớn là bỏ sổ hộ khẩu giấy.
Sau kỳ họp, Dự thảo luật tiếp tục được chỉnh lý, hoàn thiện thảo luận tại Hội nghị Đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách và gửi xin ý kiến các đoàn đại biểu Quốc hội.
Sau khi tiếp thu, chỉnh lý, Dự thảo luật có 7 chương và 38 điều (giữ nguyên số chương và giảm 5 điều do với dự thảo trình Quốc hội tại kỳ họp thứ 9).
Cuối tuần qua, dự thảo luật mới nhất đã được gửi đến các vị đại biểu Quốc hội, phục vụ việc tiếp tục thảo luận và thông qua tại kỳ họp thứ 10 (khai mạc ngày 20/10 tới). Trong quá trình hoàn thiện dự thảo luật, Chính phủ luôn khẳng định sẽ hoàn thành Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu về cư trú để có thể bỏ hộ khẩu giấy, chuyển sang quản lý bằng số hoá từ khi Luật Cư trú (sửa đổi) có hiệu lực, song không ít ý kiến còn lo ngại rằng, nếu không kịp sẽ gây khó khăn cho người dân.
Tại báo cáo tiếp thu, giải trình mới nhất, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho biết, đa số ý kiến tán thành việc thay đổi phương thức quản lý cư trú mới và nhất trí quy định Luật có hiệu lực thi hành từ ngày 1/7/2021.
Có ý kiến đề nghị cân nhắc quy định thời điểm Luật có hiệu lực thi hành muộn hơn, có thể là từ ngày 1/1/2022 vì cho rằng, từ nay đến tháng 7/2021 là không đủ thời gian để bảo đảm các cơ sở dữ liệu liên quan có thể hoàn thiện và vận hành ngay được trên thực tế.
Theo Ủy ban Thường vụ Quốc hội, việc đổi mới phương thức quản lý cư trú của công dân từ cách thức thủ công, truyền thống bằng sổ hộ khẩu, sổ tạm trú và các tàng thư văn bản sang quản lý bằng số hóa, có kết nối thông suốt giữa các cơ quan đăng ký, quản lý cư trú trên cả nước thông qua Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu về cư trú và số định danh cá nhân là hoàn toàn phù hợp với xu thế tất yếu của việc hiện đại hóa phương thức quản lý nhà nước, ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng Chính phủ điện tử, chính quyền điện tử hiện nay.
Việc này vừa bảo đảm thuận lợi cho công dân trong việc thực hiện tốt hơn quyền tự do cư trú, vừa nâng cao hiệu quả của công tác quản lý nhà nước.
Thời gian qua, Chính phủ, Bộ Công an cùng các cơ quan liên quan đã thể hiện quyết tâm rất cao, có nhiều văn bản chỉ đạo và hành động quyết liệt phấn đấu hoàn thành việc xây dựng Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, Cơ sở dữ liệu về cư trú để có thể vận hành chính thức từ ngày 1/7/2021. Vì vậy, về cơ bản, Ủy ban Thường vụ Quốc hội nhất trí thời điểm Luật Cư trú (sửa đổi) có hiệu lực thi hành là từ ngày 1/7/2021 như đề xuất và cam kết của Chính phủ.
Tuy nhiên, do ý kiến còn khác nhau, nên dự thảo mới vẫn để 2 phương án trình Quốc hội quyết định. Trong đó, ở phương án 1, kể từ ngày luật này có hiệu lực thi hành, sổ hộ khẩu, sổ tạm trú đã được cấp vẫn được sử dụng và có giá trị như giấy tờ, tài liệu xác nhận về cư trú theo quy định của luật này cho đến hết ngày 31/12/2022. Trường hợp thông tin trong sổ hộ khẩu, sổ tạm trú khác với thông tin trong Cơ sở dữ liệu về cư trú thì sử dụng thông tin trong Cơ sở dữ liệu về cư trú.
Khi công dân thực hiện các thủ tục đăng ký, khai báo về cư trú dẫn đến thay đổi thông tin trong sổ hộ khẩu, sổ tạm trú, thì cơ quan đăng ký cư trú có trách nhiệm thu hồi sổ hộ khẩu, sổ tạm trú đã cấp, thực hiện điều chỉnh, cập nhật thông tin trong Cơ sở dữ liệu về cư trú theo quy định của luật này và không cấp mới, cấp lại sổ hộ khẩu, sổ tạm trú.
Trong phương án 2, các loại giấy tờ, tài liệu có giá trị pháp lý đã phát hành có sử dụng thông tin từ sổ hộ khẩu, sổ tạm trú vẫn nguyên hiệu lực pháp luật. Sổ hộ khẩu, sổ tạm trú không có giá trị sử dụng trong các giao dịch, quan hệ pháp luật được xác lập mới kể từ ngày luật này có hiệu lực thi hành.
Hai phương án về điều kiện chỗ ở
Nhất trí với quan điểm của Chính phủ là không quy định điều kiện đăng ký thường trú áp dụng riêng với thành phố trực thuộc Trung ương tại Luật Cư trú (sửa đổi), song Thường vụ Quốc hội vẫn chưa chốt được quy định mức diện tích bình quân về chỗ ở do thuê, mượn, ở nhờ làm điều kiện đăng ký thường trú của công dân. Dự thảo luật vẫn thiết kế 2 phương án: phải bảo đảm điều kiện về diện tích nhà ở tối thiểu do HĐND cấp tỉnh quy định, nhưng không thấp hơn 8 m2 sàn/người; công dân đã đăng ký tạm trú trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đó từ 1 năm trở lên.