Tỷ lệ bao phủ nợ xấu được xem là bộ đệm tài chính, giúp giảm thiểu tác động của nợ xấu lên các nhà băng

Tỷ lệ bao phủ nợ xấu được xem là bộ đệm tài chính, giúp giảm thiểu tác động của nợ xấu lên các nhà băng

Bộ đệm dự phòng của ngân hàng mỏng dần

0:00 / 0:00
0:00
(ĐTCK) Kể từ năm 2021 đến nay, tỷ lệ bao phủ nợ xấu (LLR) của toàn ngành ngân hàng có xu hướng giảm rõ rệt. Từ mức 141,88% vào cuối năm 2021, tỷ lệ này đã giảm xuống 122,61% vào cuối năm 2022 và rơi xuống dưới ngưỡng 100% vào nửa đầu năm 2023. Báo cáo tài chính quý II/2025 tiếp tục cho thấy xu hướng giảm khi chỉ còn 79,82%, so với mức 80,4% của cùng kỳ năm 2024.

Tỷ lệ bao phủ nợ xấu mỏng dần

Theo dữ liệu từ Wichart, số dư dự phòng rủi ro vào cuối quý II/2025 của các ngân hàng niêm yết ở mức 213.393 tỷ đồng, tăng nhẹ 3,2% so với cuối năm ngoái.

Ông Lê Hoài Ân, CFA, Founder IFSS, chuyên gia đào tạo và tư vấn hoạt động ngân hàng, Công ty cổ phần Giải pháp tài chính tích hợp nhận xét, báo cáo tài chính quý II/2025 đã cho thấy những diễn biến mới nhất về tỷ lệ bao phủ nợ xấu của ngành ngân hàng. Sau khi các thông tư giãn, hoãn nợ để hỗ trợ khách hàng gặp khó khăn hết hiệu lực trong năm 2024, chi phí dự phòng của toàn ngành ngân hàng chỉ tăng ở mức vừa phải, không gây ra cú sốc lớn như nhiều dự đoán. Do ảnh hưởng từ việc nợ xấu tăng nhanh trong các năm trước mà các ngân hàng chưa thể bù đắp kịp chi phí dự phòng, dẫn đến tổng thể tỷ lệ bao phủ nợ xấu của toàn ngành có xu hướng sụt giảm.

Báo cáo tài chính quý II/2025 của 29 ngân hàng (bao gồm 27 ngân hàng niêm yết, giao dịch cổ phiếu trên sàn chứng khoán và Agribank, BaoVietBank) cho thấy, chỉ có 9/29 ngân hàng báo cáo tỷ lệ bao phủ nợ xấu tăng trong nửa đầu năm 2025.

Đặc biệt, nhóm ngân hàng có vốn Nhà nước chi phối, vốn được xem là trụ cột của hệ thống, tiếp tục xu hướng giảm tỷ lệ bao phủ nợ xấu từ năm 2023. Tại quý II/2025, tỷ lệ này của nhóm đạt 125,92%, thấp hơn đáng kể so với cùng kỳ năm trước. Mặc dù tốc độ tăng nợ xấu được kiểm soát ổn định, nhưng việc trích lập chi phí dự phòng lại diễn ra chậm chạp, thậm chí còn giảm 32,73% so với cùng kỳ, cho thấy sự ưu tiên của nhóm trong việc tiết giảm chi phí. Tương tự, nhóm ngân hàng chuyên cho vay doanh nghiệp cũng giảm mạnh tỷ lệ bao phủ nợ xấu, từ mức 73,8% của cùng kỳ năm 2024 xuống chỉ còn 68,85% tại quý II/2025.

“Đây là hệ quả của việc quy mô nợ xấu tăng đáng kể trong các năm trước, trong khi chi phí dự phòng trích lập còn hạn chế, tạo ra áp lực lớn trong việc cải thiện tỷ lệ bao phủ nợ”, ông Ân nói.

Hiện có 5 ngân hàng duy trì được tỷ lệ bao phủ trên ngưỡng 100%. Cụ thể, Vietcombank tiếp tục khẳng định vị thế dẫn đầu tuyệt đối, với tỷ lệ bao phủ nợ xấu trên 200%, dù có sự giảm nhẹ (9,5 điểm %) tại quý II/2025 xuống còn 213,8% so với cuối năm ngoái. Xếp thứ hai là Agribank, với tỷ lệ bao phủ nợ xấu tăng 10,1% so với cuối năm ngoái, lên mức 142,1% vào cuối quý II/2025. Tiếp theo là VietinBank và Techcombank, với tỷ lệ bao phủ nợ xấu lần lượt đạt 134,8% (giảm 36 điểm %) và 106,5% (giảm 7 điểm %) so với cuối năm 2024. Đứng thứ 5 là Bac A Bank, với tỷ lệ bao phủ nợ xấu đạt 101,1% (tăng 3,7 điểm phần trăm), phản ánh sự tích cực trong việc xử lý nợ xấu và củng cố bộ đệm dự phòng.

Nhiều ngân hàng khác như MBB, LPB, SSB, MSB, HDB và OCB có xu hướng giảm về tỷ lệ bao phủ nợ xấu, đặc biệt MBB và HDB chứng kiến sự sụt giảm đáng kể, khoảng 12% so với cùng kỳ. Đáng chú ý, BIDV là ngân hàng có tỷ lệ bao phủ nợ xấu giảm sâu nhất, từ 133,7% xuống còn 89,1%, nguyên nhân là số dư nợ xấu của ngân hàng này đã tăng 48,6% trong nửa đầu năm nay.

Theo ông Ân, “điều này cho thấy mặc dù áp lực chi phí không quá căng thẳng, nhưng khả năng hấp thụ rủi ro của hệ thống ngân hàng đã giảm sút, tạo ra những thách thức tiềm tàng về chất lượng danh mục cho vay trong thời gian tới”.

Nút thắt xử lý nợ xấu

Cũng theo Wichart, tổng số dư nợ xấu từ nhóm 3 - 5 của 27 ngân hàng niêm yết, giao dịch cổ phiếu trên thị trường chứng khoán đã tăng 16,2%, lên gần 267.329 tỷ đồng, mức cao kỷ lục của hệ thống. Báo cáo tài chính quý II/2025 cho biết, đa số các ngân hàng ghi nhận đà tăng nợ xấu, thậm chí, có tới 19 ngân hàng bao gồm các ngân hàng có vốn Nhà nước, ngân hàng tư nhân lớn có mức tăng trưởng số dư nợ xấu ở hai con số.

Giá trị tuyệt đối số dư nợ xấu của BIDV thời điểm cuối quý II/2025 đã tăng thêm 14.104 tỷ đồng, tương đương mức tăng 49%, nâng tổng mức nợ xấu tính đến ngày 30/6/2025 của nhà băng này lên 43.140 tỷ đồng. VietinBank ghi nhận 24.813 tỷ đồng nợ xấu tại thời điểm cuối quý II/2025, tăng 3.461 tỷ đồng so với đầu năm (16%). Nợ xấu của Vietcombank và Sacombank tăng lần lượt 1.612 tỷ đồng và 1.532 tỷ đồng trong cùng thời gian, đạt 15.576 tỷ đồng và 14.117 tỷ đồng vào cuối quý II vừa qua.

Trong khi đó, TPBank ghi nhận mức tăng của nợ xấu là 53%, từ 3.803 tỷ đồng lên 5.837 tỷ đồng; PGBank tăng 42% và Nam A Bank tăng 40% trong nửa đầu năm.

Theo ông Ân, mặc dù tốc độ tăng của quy mô nợ xấu đã được kìm hãm đáng kể trong giai đoạn nửa cuối năm 2024 và năm 2025 (tăng 10,07% so với cùng kỳ tại cuối tháng 6 năm 2025), nhưng tổng nợ xấu đã mở rộng nhanh chóng trong các năm trước (tăng 35,5% so với cùng kỳ năm 2022; tăng 44,23% trong năm 2023). Trong khi đó, chi phí dự phòng trích lập lại có tốc độ tăng thấp hơn trong các năm trước đó (giảm 0,8% trong năm 2022; tăng 2,6% trong năm 2023; tăng 7,5% trong năm 2024). Nợ xấu đã tích tụ nhanh chóng từ những năm trước, các ngân hàng lại chưa đẩy mạnh việc bổ sung dự phòng trong năm nay, dẫn đến tỷ lệ bao phủ nợ xấu toàn ngành tiếp tục suy giảm. Cụ thể, tại cuối quý II/2025, tốc độ tăng chi phí trích lập chỉ ở mức 4,85% so với cùng kỳ, khiến tổng quy mô dự phòng rủi ro chỉ tăng khiêm tốn 9,28%.

“Điều này cho thấy, thay vì ưu tiên tăng cường bộ đệm tài chính, các ngân hàng đang chọn cách thận trọng hơn trong việc phân bổ nguồn lực, chấp nhận tỷ lệ bao phủ mỏng đi để tối ưu hóa hiệu quả hoạt động trong bối cảnh biên lãi NIM suy giảm bởi các chương trình kích cầu tín dụng cho cả khu vực tín dụng cá nhân và doanh nghiệp”, ông Ân nói.

Tổng nợ xấu của toàn hệ thống tăng trong nửa đầu năm, nhưng kỳ vọng lạc quan ban đầu là nợ xấu sẽ giảm trong nửa còn lại của năm khi dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Các tổ chức tín dụng năm 2024 được thông qua tại Kỳ họp thứ 9 Quốc hội khóa XV. Trong đó, có nội dung quan trọng là luật hóa Nghị quyết 42 của Quốc hội về xử lý nợ xấu. Tuy nhiên, nút thắt pháp lý mới lại xuất hiện khi tuần qua, Ngân hàng Nhà nước công bố Dự thảo Nghị định nhằm cụ thể hóa quy định tại Điều 198a của Luật này.

Theo đó, dự thảo Nghị định xác định tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu được thu giữ khi đáp ứng các điều kiện quy định tại Điều 198a và các điều kiện sau: tài sản bảo đảm không phải là nhà ở duy nhất của bên bảo đảm; tài sản bảo đảm không phải là công cụ lao động chủ yếu hoặc duy nhất của bên bảo đảm. Vấn đề đang được các chuyên gia pháp lý và giới ngân hàng đặt ra, rủi ro khi bên bảo đảm gian lận trong việc cung cấp tài liệu chứng minh xác nhận tài sản là nhà ở duy nhất hoặc công cụ lao động chủ yếu sẽ dẫn đến hệ lụy gì? Nếu Nghị định được ban hành, liệu có dẫn đến tình huống lãi suất ngân hàng tăng mạnh và người dân không tiếp cận được nguồn vốn, bởi không có hành lang pháp lý bảo vệ quyền của chủ nợ khi cho vay có bảo đảm.

Trong bối cảnh xu hướng tăng của tỷ lệ nợ xấu đang gây áp lực lớn lên hệ thống ngân hàng, đặc biệt khi năm 2025 được coi là năm bứt phá để hoàn thành mục tiêu nhiệm kỳ 2021 - 2025 và tăng trưởng GDP tối thiểu 8%, dự thảo Nghị định càng nhận được sự quan tâm hơn từ thị trường.

Tin bài liên quan