70% cổ phiếu tăng giá

70% cổ phiếu tăng giá

(ĐTCK) Từ đầu năm đến cuối tuần qua, TTCK có 489 cổ phiếu tăng giá, trong đó nhiều mã tăng “nóng”.

Theo thống kê của ĐTCK dựa trên số liệu ngày 3/2/2012 so với ngày 30/12/2011, thị trường có 489 cổ phiếu tăng giá, chiếm 69,66% tổng số cổ phiếu niêm yết trên cả hai sàn.

Điểm mặt những cổ phiếu tăng nóng:  HNX tăng mạnh hơn

Sàn HOSE có 224 cổ phiếu tăng giá, chiếm 72,49% số cổ phiếu trên sàn này. Sàn HNX có 265 cổ phiếu tăng giá, chiếm 67,43% số cổ phiếu niêm yết trên sàn này. Mức tăng bình quân của cổ phiếu trên HOSE là 13,5%, trên HNX là 15,7%.

Trong giai đoạn này, VN-Index tăng 14,3%, từ 351,6 điểm lên 401,7 điểm; HNX-Index tăng 5,3%, từ 58,7 điểm lên 61,9 điểm. Khối lượng giao dịch bình quân trên HOSE là 24.571.593 đơn vị/phiên, còn trên HNX là 23.724.388 đơn vị/phiên.

Mặc dù HNX-Index có mức tăng thấp hơn VN-Index, nhưng các cổ phiếu trên sàn HNX lại có mức tăng giá mạnh hơn. Mức tăng trên HNX tập trung vào những cổ phiếu vốn hóa nhỏ, ít có tác động đến chỉ số như trên sàn HOSE.

 70% cổ phiếu tăng giá ảnh 1

Nhiều cổ phiếu nhỏ tăng “khủng”

Với mức tăng giá 70%, cổ phiếu FLC đã đem lại một khoản lợi nhuận “kếch xù” cho nhiều cổ đông chỉ sau một thời gian ngắn lên sàn. Đây là cổ phiếu giữ ngôi vị quán quân tăng giá từ đầu năm 2012 đến nay.

Trong số 20 cổ phiếu tăng “nóng” nhất trên cả 2 sàn (xem bảng 1), có 9 mã có khối lượng giao dịch bình quân mỗi phiên dưới 10.000 đơn vị. Dù một số mã có lượng bán ra rất ít, nhưng thanh khoản yếu là nguyên nhân chính giúp một vài cổ đông có thể “điều khiển” giá cổ phiếu.

Blue-chip không “kém miếng”

Tất cả 10 cổ phiếu blue-chip thuộc top đầu về vốn hóa trên HOSE đều tăng giá, còn trên HNX duy nhất PVS giảm giá (xem bảng 2). Dẫn đầu nhóm này là CTG với 37,9% giá trị gia tăng trong khoảng thời gian nêu trên, nhờ kết quả kinh doanh năm 2011 khá ấn tượng. Trên sàn HNX, những cổ phiếu dưới mệnh giá được giới đầu tư đặc biệt quan tâm, PVX nhờ đó dẫn đầu sàn này với mức tăng 23,5%.

Tuy nhiên, đây là những con số được tính toán so với cuối năm 2011. Nếu so với mức đáy thấp hơn nữa mà một số cổ phiếu blue-chip này xác lập trong thời gian gần đây, thì mức tăng giá của nhóm 20 cổ phiếu có vốn hóa lớn nhất trên hai sàn còn cao hơn nhiều. Đơn cử như mức giá thấp nhất của CTG trong 2 tháng trở lại đây là 16.100 đồng/CP, như vậy những NĐT bắt đáy đã ghi nhận mức lợi nhuận “khủng” 51,55% nếu vẫn còn giữ cổ phiếu tại thời điểm này.

Theo CTCK EuroCapital, trong ba tuần giao dịch gần nhất, TTCK tăng mạnh trong trạng thái tiết cung. Nhưng trong tuần đầu tiên sau Tết âm lịch, lượng bán tăng mạnh qua từng phiên giao dịch. Do thiếu sự thiết lập một nền tảng giá vững chắc tại vùng đáy (thanh khoản vùng đáy thấp và thời gian hình thành đáy ngắn) và thông tin hỗ trợ thật sự thiết thực, nên rủi ro thị trường điều chỉnh giảm mạnh sẽ ở mức cao. Vì vậy, các chuyên gia của EuroCapital khuyến nghị, nhà đầu tư chưa nên vội vàng mua vào ngay trong phiên điều chỉnh giá đầu tiên. Sự điều chỉnh của thị trường thời điểm hiện tại là cần thiết để kiểm nghiệm độ vững chắc của xu hướng và “lôi kéo” lực cầu mới tham gia thị trường.

 

Bảng 1: Top cổ phiếu tăng mạnh nhất trên 2 sàn

Sàn HOSE

Sàn HNX

30/12

3/2

+/-

KLBQ

30/12

3/2

+/-

KLBQ

CCL

10,3

16,3

58,3%

 734

FLC

19,5

33,2

70,0%

 269.637

VSI

4,4

6,7

52,3%

 774

SDS

5,1

8,2

60,8%

 385

TV1

5,3

7,9

49,1%

 3.810

HCC

5,5

8,7

59,0%

 16.029

BRC

7,0

9,9

41,4%

 10.753

TC6

8,5

12,5

47,1%

 29.900

CTG

17,7

24,4

37,9%

 395.594

TV4

6,0

8,8

46,7%

 15.456

BVH

41,0

56,0

36,6%

 128.246

SKS

5,5

8,0

45,5%

 3.371

ATA

6,3

8,6

36,5%

 10.200

THT

8,9

12,9

44,9%

 21.310

TRA

36,1

47,8

32,4%

 7.166

PVA

5,7

8,1

42,1%

 198.302

MPC

14,6

19,0

30,1%

 41.193

VDL

22,1

30,8

39,4%

 378

PGI

6,5

8,4

29,2%

 4.386

KMT

4,9

6,8

38,8%

 293

Bảng 2: Top cổ phiếu vốn hóa lớn nhất trên 2 sàn

Sàn HOSE

Sàn HNX

30/12

3/2

+/-

KLBQ

30/12

3/2

+/-

KLBQ

CTG

17,7

24,4

37,9%

 395.594

PVX

6,8

8,4

23,5%

 1.970.710

BVH

41,0

56,0

36,6%

 128.246

SHB

5,9

7,0

18,6%

 709.046

HAG

19,5

24,9

27,7%

 644.664

KLS

8,0

9,2

15,0%

 2.714.829

STB

15,1

18,7

23,8%

 2.010.011

HBB

4,3

4,7

9,3%

 724.222

EIB

13,0

15,8

21,9%

 697.935

ACB

19,7

21,4

8,7%

 284.041

MSN

90,5

110,0

21,5%

 96.190

VCG

8,9

9,6

7,9%

 985.673

VIC

99,5

114,0

14,6%

 140.422

PVI

18,4

19,1

3,8%

 112.332

VCB

21,8

24,5

12,4%

 447.365

NVB

7,8

7,9

1,3%

 5.890

FPT

49,7

50,5

1,6%

 141.536

SQC

83,9

84,0

0,1%

 115

VNM

86,5

87,5

1,2%

 54.836

PVS

14,7

13,7

-6,8%

 279.737