Đến nay, VPBank đã hoàn thành xử lý 100% nợ xấu, thu hồi được 1.250 tỷ đồng nợ xấu

Đến nay, VPBank đã hoàn thành xử lý 100% nợ xấu, thu hồi được 1.250 tỷ đồng nợ xấu

Xử lý nợ xấu, đừng nhìn vào con số

(ĐTCK)  Tỷ lệ nợ xấu toàn ngành ngân hàng về mức 3% vào cuối tháng 9, sớm hơn một quý so với cam kết của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước là cuối năm 2015. Bức tranh nợ xấu ngân hàng đã thực sự lạc quan như con số trên?

3 năm, xử lý 424.000 tỷ đồng nợ xấu

Chia sẻ với ĐTCK về tình hình xử lý nợ xấu cuả ngành ngân hàng, ông Trương Văn Phước, Phó chủ tịch Ủy ban Giám sát tài chính quốc gia cho biết, nếu như tháng 9/2012, thời điểm trước khi ngành ngân hàng bước vào giai đoạn tái cơ cấu, tỷ lệ nợ xấu toàn ngành vào khoảng 17%. Sau ba năm tiến hành tái cơ cấu gắn với xử lý nợ xấu, tỷ lệ này đã giảm về dưới 3%.

Tổng số nợ xấu hệ thống TCTD đã xử lý trong giai đoạn 2012 - 2015 đạt 424.000 tỷ đồng, tương đương hơn 90% tổng số nợ xấu ước tính tại thời điểm tháng 9/2012. Trong đó, 45% nợ xấu được xử lý thông qua Công ty Quản lý tài sản của các TCTD Việt Nam (VAMC); 28% xử lý bằng nguồn khoản dự phòng rủi ro và 27% còn lại được xử lý qua các hình thức khác.

Thông tin từ các TCTD cũng cho thấy, các ngân hàng rất quyết liệt trong việc chủ động xử lý nợ xấu. Chẳng hạn như VPBank đã hoàn thành xử lý 100% số nợ xấu theo cam kết với NHNN. Đáng chú ý, VPBank đã thu hồi được gần 1.250 tỷ đồng nợ xấu.

Theo ông Nguyễn Thành Long, Phó tổng giám đốc VPBank, Ngân hàng luôn chú trọng công tác thu hồi nợ. VPBank đã thành lập Công ty Quản lý tài sản (AMC), chuyên trách thu hồi nợ. Đồng thời, Ngân hàng cũng tăng cường kiểm soát nợ xấu, nâng cao chất lượng tín dụng từ khâu thẩm định khách hàng và giám sát sau cho vay, cảnh báo sớm để phát các khoản tín dụng có khả năng gặp khó khăn và có biện pháp xử lý kịp thời…

Tại Vietcombank, tính đến 30/9/2015, nợ xấu của ngân hàng này chỉ còn 7.776 tỷ đồng. Tỷ lệ nợ xấu đã giảm xuống còn 2,1% sau khi lên gần 3% hồi đầu năm 2015. 9 tháng đầu năm 2015, thu nợ ngoại bảng lũy kế tiếp tục đạt 1.313 tỷ đồng, trong đó thu hồi nợ đã xử lý bằng dự phòng rủi ro là 1.024 tỷ đồng, thu nợ bán cho VAMC là 289 tỷ đồng.

Ông Nguyễn Hoàng Minh, Phó giám đốc NHNN TP. HCM cho biết, nợ xấu tự xử lý của các ngân hàng trên địa bàn tính từ đầu năm đến nay là 5.731 tỷ đồng, so với chỉ tiêu NHNN phân giao là 3.100 tỷ đồng, chủ yếu từ tăng trích dự phòng rủi ro.

Các ngân hàng cũng tích cực bán nợ xấu cho VAMC. Theo TS. Lê Cẩm Ninh, Phó phòng Quản lý nợ có vấn đề của VietinBank, tính đến thời điểm 30/9/2015, VietinBank đã tiến hành bán nợ được 12.000 tỷ đồng, trong đó bán nợ cho VAMC theo lộ trình là trên 10.000 tỷ đồng, còn lại là bán nợ cho DATC, tổ chức, cá nhân khác.

Ông Nguyễn Quốc Hùng, Chủ tịch HĐTV VAMC cho biết, tính từ đầu năm đến 20/10, VAMC đã phát hành trái phiếu đặc biệt để mua nợ xấu của các TCTD được 13.079 khoản nợ, tương ứng với 90.226 tỷ đồng dư nợ gốc nội bảng, với giá mua là 82.729 tỷ đồng. Lũy kế từ năm 2013 đến nay, VAMC đã phát hành trái phiếu đặc biệt mua nợ xấu đạt 218.901 tỷ đồng tổng giá trị dư nợ gốc nội bảng, 191.381 tỷ đồng giá mua nợ.

“Sau hơn 2 năm đi vào hoạt động, VAMC đã giúp các TCTD giảm được dư nợ xấu hơn 225.602 tỷ đồng”, ông Hùng nói. 

Nhưng chưa thể yên tâm

Nợ xấu toàn ngành đã về 3%, nhưng liệu có thể yên tâm với kết quả xử lý nợ xấu này, khi 45% nợ xấu, tức hơn 225.602 tỷ đồng nợ xấu được xử lý thông qua VAMC thực chất chỉ được “gom” lại một chỗ? 

Kết quả xử lý nợ xấu của VAMC cũng được chính lãnh đạo Công ty thừa nhận, còn rất khiêm tốn. Đến nay, VAMC mới thực hiện thu hồi nợ, bán nợ, bán tài sản đặc biệt được 15.669 tỷ đồng.

Theo ông Hùng, nhiều DN phát sinh nợ xấu tại một hoặc nhiều TCTD, nợ xấu đã được bán cho VAMC. Tuy nhiên, khi khách hàng đề nghị được cơ cấu nợ, xây dựng phương án để tiếp tục kinh doanh, TCTD không đồng ý cho DN được tiếp tục vay vốn do tài sản đặc biệt có giá trị kém, do tâm lý sợ bị xử lý hình sự hóa sau khi cơ cấu nợ, khách hàng không trả được nợ.

Bên cạnh đó, VAMC không có quyền chủ động để xử lý những khoản nợ xấu mua bằng trái phiếu đặc biệt. Do vậy, trên danh nghĩa TCTD vẫn có quyền quyết định đối với tài sản thế chấp của khoản nợ, VAMC không có nhiều vai trò định đoạt tài sản đặc biệt các khoản nợ xấu đã mua.

Cho dù khách hàng rất muốn bán tài sản để trả nợ TCTD, nhưng sau khi bán tài sản, giá trị thu hồi không đủ trả nợ, nên không chấp nhận định giá tài sản theo mức giá thị trường mà luôn yêu cầu phải đủ để trả nợ gốc và lãi. Việc định giá khoản nợ đến nay chưa có quy định cụ thể, cơ sở đánh giá rất phức tạp. Trong khi khả năng của VAMC trong giai đoạn này chưa thể tự định giá để mua bán được khoản nợ. Vì vậy, VAMC sẽ rất khó thực hiện việc bán khoản nợ đảm bảo tiêu chí công khai minh bạch.

Ngoài ra, trong thời gian qua, rất nhiều tổ chức quốc tế, nhà đầu tư nước ngoài đến làm việc với VAMC để tìm hiểu thực tế hoạt động của VAMC, khuôn khổ pháp lý trong việc triển khai xử lý nợ, bán các khoản nợ xấu đã mua bằng trái phiếu đặc biệt. Tuy nhiên, sau khi nghiên cứu hệ thống pháp luật tại Việt Nam đối với các vấn đề liên quan đến mua bán và xử lý nợ, về sở hữu đất đai, về tái cấu trúc DN, đặc biệt là vai trò còn hạn chế của VAMC trong việc quyết định các vấn đề về bán nợ, bán TSBĐ..., các nhà đầu tư chỉ mới tiếp cận để tìm hiểu bước đầu mà chưa chính thức đặt vấn đề cụ thể.

Cũng theo ông Hùng, hiện Việt Nam chưa có thị trường mua bán nợ xấu. Đối tượng được mua bán nợ bị hạn chế theo các quy định pháp luật, cụ thể Luật Đầu tư 2014 quy định kinh doanh dịch vụ mua bán nợ là ngành nghề đầu tư, kinh doanh có điều kiện. Như vậy, VAMC mua nợ xấu của các TCTD nhưng không thể bán được nợ cho bên thứ ba nếu không có giấy phép kinh doanh về ngành nghề mua bán nợ.

Đặc biệt, TS. Nguyễn Trí Hiếu, chuyên gia kinh tế cho rằng, mặc dù bán nợ cho VAMC nhưng TCTD vẫn phải chịu trách nhiệm như trích dự phòng rủi ro (chẳng hạn 20% mỗi năm cho 5 năm), thu hồi nợ, bán nợ, bán  tài sản đảm bảo, thậm chí gánh chịu hậu quả nếu xảy ra thất thoát.

Sau 5 năm, nếu món nợ xấu chưa được giải quyết sẽ trở lại với TCTD mà khi đó những tài sản thế chấp chẳng hạn như hàng hóa, bất động sản có thể mất giá, hao mòn... dẫn đến việc thu hồi nợ qua thanh lý tài sản bảo đảm lại càng trở nên khó khăn hơn. Chúng ta không thể chỉ nhìn vào con số nợ xấu đã được giải quyết thời gian qua mà phải nhìn vào những khó khăn thực tế trong việc giải quyết nợ xấu.

Tin bài liên quan