Theo bà, đâu là các yếu tố thuận lợi và những điểm cần lưu ý cho ngành ngân hàng trong năm nay?
Về thuận lợi, kinh tế thế giới dự báo phục hồi khả quan hơn năm 2017. Theo dự báo của IMF và WB, kinh tế toàn cầu năm 2018 sẽ tăng trưởng trong khoảng 3,7-3,9%, đặc biệt các nền kinh tế lớn là đối tác hàng đầu của Việt Nam tiếp tục tăng trưởng tích cực. Bên cạnh đó, giá năng lượng và nông sản thế giới phục hồi... Các yếu tố này sẽ tác động tích cực đến tăng trưởng, xuất khẩu, thu ngân sách của Việt Nam.
Ở trong nước, chúng ta có nền tảng chính trị và môi trường kinh tế vĩ mô ổn định với lạm phát hợp lý trong những năm qua, cán cân thanh toán liên tục thặng dư, dự trữ ngoại hối tăng kỷ lục, giúp tăng cường khả năng chống đỡ của nền kinh tế với các cú sốc. Môi trường đầu tư kinh doanh ngày càng được Chính phủ quan tâm cải thiện theo đúng định hướng Chính phủ kiến tạo. Việt Nam đang trong chu kỳ phục hồi kinh tế sau giai đoạn tăng trưởng thấp hậu khủng hoảng tài chính toàn cầu.
Hệ thống ngân hàng sẽ phấn đấu giảm tiếp lãi suất cho vay để hỗ trợ cộng đồng doanh nghiệp
Tuy nhiên, vẫn còn những rủi ro, thách thức cả trong ngắn và trung hạn đối với NHNN trong việc thực hiện các nhiệm vụ được giao. Việc ổn định lạm phát phù hợp với mục tiêu khoảng 4% trong năm 2018 là không dễ dàng trong điều kiện giá hàng hóa thế giới, đặc biệt là giá dầu mỏ, có xu hướng tăng.
Trong khi đó, lộ trình điều chỉnh giá các mặt hàng Nhà nước quản lý vẫn đang được triển khai, cung tiền chịu áp lực khi dòng vốn đầu tư nước ngoài đổ vào ngày càng lớn trước tiến trình cổ phần hóa, thoái vốn nhà nước tại các doanh nghiệp nhà nước lớn... Điều đó đòi hỏi phải có sự phối hợp chặt chẽ, hài hòa giữa chính sách tiền tệ, chính sách tài khóa và các chính sách khác của Nhà nước.
Ngoài ra, việc điều hành tỷ giá theo hướng ổn định, giảm lãi suất cho vay khi có điều kiện như chủ trương của Chính phủ đang đặt NHNN đứng trước những khó khăn, thách thức khi mà thị trường tài chính toàn cầu, dòng vốn vào/ra còn biến động khó lường, xuất phát từ những thay đổi trong chính sách tiền tệ của các ngân hàng trung ương trên thế giới, đặc biệt là Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (Fed); xu hướng bảo hộ thương mại, nguy cơ chiến tranh thương mại...
(Nguồn: NHNN)
Một vấn đề khác là cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 dù đem lại cơ hội nâng cao năng suất, chất lượng nhờ ứng dụng công nghệ, tạo ra các sáng kiến tài chính mới (FinTech) như thanh toán trực tuyến, ngân hàng số..., nhưng cũng tạo ra thách thức không nhỏ cho sự phát triển bền vững của hệ thống ngân hàng.
Xác định được những thuận lợi và rủi ro, thách thức như trên, toàn ngành ngân hàng tiếp tục bám sát chỉ đạo của Đảng, Chính phủ để chủ động, sáng tạo và phối hợp chặt chẽ với các ngành, các cấp nhằm phát huy những thành quả đạt được trong những năm qua, đồng thời khắc phục các tồn tại, hạn chế, hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ đã đặt ra.
Cộng đồng doanh nghiệp mong muốn lãi suất sẽ hạ thêm. Với cương vị là lãnh đạo ngành ngân hàng, theo bà, liệu có thể giảm thêm được lãi suất từ nay đến cuối năm?
Việc giữ ổn định mặt bằng lãi suất và phấn đấu giảm lãi suất cho vay để hỗ trợ doanh nghiệp và nền kinh tế luôn là một trong những nhiệm vụ trọng tâm trong điều hành chính sách tiền tệ của NHNN. Năm 2017 vừa qua, mặc dù chịu sức ép từ nhiều yếu tố, nhưng NHNN nỗ lực duy trì ổn định mặt bằng lãi suất, đồng thời giảm lãi suất cho vay ngắn hạn đối với các lĩnh vực ưu tiên khoảng 0,5%/năm.
Tính chung từ cuối năm 2011 đến nay, lãi suất huy động giảm khoảng 7-10%/năm; trong khi đó, lãi suất cho vay giảm nhanh và mạnh hơn, khoảng 11-14%/năm. Lãi suất giảm đã hỗ trợ tích cực cho sự phát triển của doanh nghiệp và nền kinh tế.
Sẽ tiếp tục nắn dòng vốn tín dụng vào sản xuất và các lĩnh vực ưu tiên
Năm 2018, ngay từ đầu năm, NHNN đã định hướng tiếp tục giảm lãi suất cho vay để hỗ trợ doanh nghiệp và nền kinh tế. Theo đó, bám sát diễn biến kinh tế vĩ mô, thị trường tiền tệ, ngoại hối..., NHNN đã giảm lãi suất trên thị trường mở (OMO) từ 5%/năm xuống 4,75%/năm để hỗ trợ các tổ chức tín dụng có điều kiện giảm chi phí vốn, từ đó giảm lãi suất cho vay. Bên cạnh đó, thực hiện chỉ đạo của NHNN, các ngân hàng thương mại nhà nước và một số ngân hàng thương mại cổ phần đã giảm 0,5%/năm lãi suất cho vay ngắn hạn đối với các lĩnh vực ưu tiên về còn tối đa là 6%/năm và khoảng 9-10%/năm đối với vay trung - dài hạn.
Từ những kết quả tích cực đã đạt được, trong thời gian tới, NHNN tiếp tục điều hành lãi suất phù hợp với cân đối vĩ mô, lạm phát và thị trường tiền tệ. Trong điều kiện lạm phát được kiểm soát thấp hơn mục tiêu, thị trường ổn định, kinh tế vĩ mô thuận lợi, NHNN sẽ điều hành các công cụ chính sách tiền tệ hỗ trợ tổ chức tín dụng giảm lãi suất huy động, tạo điều kiện giảm lãi suất cho vay trên cơ sở đảm bảo hoạt động an toàn, lành mạnh tài chính và giảm nợ xấu.
Bà có thể cho biết, trọng tâm của việc cơ cấu lại các ngân hàng thương mại có vốn nhà nước trong thời gian tới là gì?
Trước hết, cần phải khẳng định, chủ trương của Đảng và Chính phủ về việc Nhà nước sở hữu hoặc nắm giữ cổ phần chi phối đối với các ngân hàng thương mại nhà nước trong giai đoạn qua là phù hợp, hoàn toàn không phải là rào cản, mà đóng vai trò là nhân tố chủ lực, góp phần quan trọng vào quá trình phát triển của hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam nói chung, đặc biệt trong giai đoạn thực hiện cơ cấu lại theo chủ trương lớn của Đảng, Chính phủ trong những năm qua.
Tính đến cuối năm 2015, vốn điều lệ của các ngân hàng thương mại nhà nước đạt 127.100 tỷ đồng, tăng 64,82% so với năm 2011, chiếm 27,61% tổng vốn điều lệ toàn hệ thống. Quản trị, điều hành tại các ngân hàng thương mại nhà nước đã từng bước được cải thiện rõ rệt, các quy chế quản trị nội bộ, quy chế công bố thông tin... được thực hiện minh bạch theo tiêu chuẩn của các tổ chức niêm yết.
Các tổ chức tín dụng nước ngoài đã có những đóng góp tích cực đối với nền kinh tế Việt Nam
Để tiếp tục phát huy vai trò của các ngân hàng thương mại nhà nước, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1058/QĐ-TTg ngày 19/7/2017 về việc phê duyệt Đề án cơ cấu lại hệ thống các tổ chức tín dụng gắn với xử lý nợ xấu giai đoạn 2016-2020 (Đề án 1058). Trong đó, cơ cấu lại các ngân hàng thương mại nhà nước với các giải pháp cụ thể, tập trung vào việc nâng cao năng lực tài chính, chất lượng quản trị, điều hành và việc triển khai áp dụng các chuẩn mực Basel II...
Thứ nhất, các ngân hàng thương mại cổ phần nhà nước (không bao gồm Agribank) phải chủ động xây dựng và triển khai phương án tự củng cố, chấn chỉnh hoạt động và nâng cao năng lực cạnh tranh để phát triển vững chắc về năng lực tài chính, quy mô, hoạt động, có trình độ quản trị hiện đại và công nghệ tiên tiến.
Thứ hai, tăng vốn điều lệ để cải thiện, nâng cao năng lực tài chính, đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn theo chuẩn mực Basel II thông qua các biện pháp tăng vốn đã được phê duyệt và tiếp tục đẩy mạnh phát hành cổ phiếu cho các nhà đầu tư theo nguyên tắc bảo đảm vai trò chi phối của Nhà nước trong các ngân hàng thương mại nhà nước (tối thiểu 65% tổng số cổ phần có quyền biểu quyết).
Thứ ba, lựa chọn cổ đông chiến lược, đảm bảo có ít nhất một nhà đầu tư chiến lược nước ngoài có uy tín trên thị trường, có năng lực tài chính, kinh nghiệm quản trị; chuẩn bị các điều kiện tiền đề, tiến tới niêm yết cổ phiếu trên thị trường chứng khoán quốc tế.
Thứ tư, phát triển mạnh các kênh phân phối điện tử, tăng cường khả năng bảo mật thông tin để tăng khả năng tiếp cận dịch vụ của khách hàng, đảm bảo an toàn, hạn chế tối đa rủi ro cho khách hàng và bản thân ngân hàng.
Thứ năm, tiếp tục tiến hành rà soát, củng cố các hoạt động kinh doanh chính; thoái vốn đầu tư ngoài ngành, lĩnh vực phi tài chính, nhiều rủi ro.
Thứ sáu, ưu tiên cấp tín dụng cho các ngành, lĩnh vực then chốt của nền kinh tế như phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế, thúc đẩy xuất khẩu, nông nghiệp, nông thôn, các ngành công nghiệp mũi nhọn, doanh nghiệp nhỏ và vừa nhằm góp phần tái cơ cấu nền kinh tế.
Đối với Agribank, phải giữ vai trò chủ đạo trong lĩnh vực tín dụng nông nghiệp, nông thôn và phải được cơ cấu lại toàn diện thông qua các giải pháp phù hợp về nâng cao năng lực tài chính, chuyển đổi mô hình kinh doanh, quản trị, điều hành.
Chẳng hạn, cơ cấu lại theo mô hình ngân hàng thương mại đa năng, giữ vai trò chủ đạo trong lĩnh vực tín dụng nông nghiệp, nông thôn; tăng vốn điều lệ theo phương án được cấp có thẩm quyền phê duyệt để cải thiện, nâng cao năng lực tài chính, đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn theo chuẩn mực Basel II; triển khai các bước để thực hiện cổ phần hóa vào thời điểm thích hợp và bảo đảm Nhà nước nắm giữ tối thiểu 65% vốn điều lệ.
Trong những năm qua, các ngân hàng ngoại tích cực tham gia thị trường ngân hàng Việt. Bà có thể cho biết quan điểm của NHNN trong tái cơ cấu khối ngân hàng này như thế nào?
Tính đến thời điểm 31/1/2018, các tổ chức tín dụng nước ngoài hiện diện tại Việt Nam gồm có 9 ngân hàng 100% vốn nước ngoài, 2 ngân hàng liên doanh, 491 chi nhánh ngân hàng nước ngoài và 47 văn phòng đại diện.
Cho đến nay, các tổ chức tín dụng nước ngoài đã có những đóng góp tích cực đối với hệ thống các tổ chức tín dụng và nền kinh tế Việt Nam như góp phần thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam; góp phần đa dạng hóa sản phẩm, dịch vụ ngân hàng và hiện đại hóa hệ thống ngân hàng Việt Nam; góp phần tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng, minh bạch cho hệ thống các tổ chức tín dụng Việt Nam.
Tuy nhiên, hoạt động của các tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam cũng mang lại nhiều thách thức cho các tổ chức tín dụng trong nước do các tổ chức tín dụng nước ngoài có ưu thế vượt trội về sản phẩm, dịch vụ tài chính ngân hàng, khả năng quản trị điều hành, quản trị rủi ro. Theo đó, các tổ chức tín dụng trong nước có thể đối mặt với nguy cơ trong dài hạn về việc mất dần lợi thế về dịch vụ ngân hàng bán lẻ hoặc khó khăn trong thu hút lao động có trình độ cao.
Trong thời gian tới, NHNN sẽ khuyến khích việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại giữa các tổ chức tín dụng nước ngoài với nhau và giữa tổ chức tín dụng nước ngoài với tổ chức tín dụng Việt Nam thực hiện theo nguyên tắc tự nguyện và theo quy định của pháp luật hiện hành. Khuyến khích, tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng nước ngoài, đặc biệt là các tổ chức tín dụng có năng lực tài chính vững mạnh, uy tín và kinh nghiệm quốc tế, tham gia hỗ trợ chuyển giao công nghệ, kiến thức, kinh nghiệm quản trị cũng như góp vốn, mua cổ phần, mua lại, sáp nhập, hợp nhất với các tổ chức tín dụng trong nước.
Từ đầu năm đến nay xuất hiện làn sóng FinTech và ngân hàng số trong khu vực và tại Việt Nam. NHNN đánh giá thế nào và đã có sự chuẩn bị gì về nền tảng pháp lý cũng như quản lý nhà nước trước xu thế này?
Hiển nhiên, đứng trước cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, ngành ngân hàng nói chung và từng ngân hàng nói riêng phải thay đổi để thích ứng nếu không muốn đánh mất vai trò, chức năng và uy tín như một nhà cung ứng dịch vụ tài chính toàn diện, tín nhiệm đối với khách hàng. Theo nhìn nhận của chúng tôi, lĩnh vực FinTech ở Việt Nam khá non trẻ, còn nhiều tiềm năng phát triển, dù các công ty FinTech dưới hình thức là các đơn vị trung gian thanh toán đã xuất hiện tại Việt Nam từ năm 2008.
Có nhận định cho rằng, FinTech phát triển mạnh mẽ đang lấy mất, hay lấn lướt thị phần của các tổ chức tài chính, nhưng điều này theo chúng tôi, mới chỉ là quan ngại, chứ chưa hẳn đúng với thực tế đang diễn ra.
Thứ nhất, so với các ngân hàng hay tổ chức tài chính, các công ty FinTech thường thiếu vốn, kinh nghiệm và những lợi thế cạnh tranh cần thiết để có thể phát triển bền vững một cách độc lập.
Thứ hai, bản thân nhiều ngân hàng cũng không ngồi yên mà đã chủ động đổi mới, sáng tạo thông qua tự đổi mới trong nội bộ tổ chức, đẩy mạnh đầu tư, ứng dụng triển khai những thành tựu công nghệ của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 theo hướng chuyển đổi số, phát triển ngân hàng số, thiết lập quan hệ hợp tác với những FinTech phù hợp.
Tuy nhiên, phải nhìn nhận một thực tế rằng, FinTech tại Việt Nam dù rất tiềm năng, song chưa phát triển như kỳ vọng. Lý do một phần đây là lĩnh vực mới xuất hiện trên thế giới và tại Việt Nam, khung khổ pháp lý điều tiết lĩnh vực này chưa theo kịp hoặc chưa được xây dựng, hoàn thiện. Mặt khác, thiếu hụt về vốn và tài năng trong lĩnh vực FinTech, hay mối quan hệ hợp tác giữa FinTech và hệ thống ngân hàng truyền thống vẫn chưa đạt tới mức độ tạo chuyển biến sâu rộng cũng có thể giúp lý giải tình trạng này.
Trong thời gian tới, NHNN sẽ tập trung xây dựng, hoàn thiện khung khổ pháp lý cho hoạt động của các công ty FinTech trong lĩnh vực ngân hàng, bổ sung, sửa đổi quy định của ngành ngân hàng để tương thích, phù hợp hơn với bối cảnh số hóa và xu hướng phát triển của FinTech. Đối với những giải pháp, nghiệp vụ mới của các công ty FinTech mà khuôn khổ pháp lý hiện hành chưa quy định, NHNN có kế hoạch nghiên cứu, áp dụng cách thức quản lý theo khuôn khổ pháp lý thử nghiệm có kiểm soát phù hợp với thực tiễn, thông lệ quốc tế, tiến tới việc ban hành khuôn khổ pháp lý và quản lý chính thức.
Một vấn đề liên quan là tiền ảo. NHNN đã có thông báo nêu rõ không chấp nhận tiền ảo trong thanh toán, nhưng đây là một xu hướng đang phát triển ở nhiều nước trên thế giới. Về dài hạn, NHNN sẽ ứng xử với tiền ảo như thế nào?
Tiền ảo bao gồm Bitcoin, tiền mã hóa (crypto-currency) là một hiện tượng mới nổi lên khoảng vài năm trở lại đây, chưa có được một định nghĩa thống nhất, chưa được đồng thuận rộng rãi và bản thân định nghĩa về tiền ảo cũng liên tục được bổ sung và cập nhật. Bên cạnh đó, do tiền ảo có đặc tính ẩn danh cao, hệ thống hoạt động phân tán, không chịu sự quản lý, ràng buộc của bất kỳ cơ quan, tổ chức nào, nên tiền ảo tiềm ẩn nhiều rủi ro lớn, hệ lụy khó lường...
Sớm nhận thức được vấn đề này, NHNN đã nhiều lần khẳng định, bitcoin và các loại tiền ảo tương tự khác không phải là phương tiện thanh toán hợp pháp tại Việt Nam. Việc phát hành, cung ứng, sử dụng bitcoin và các loại tiền ảo tương tự khác làm phương tiện thanh toán là hành vi bị cấm tại Việt Nam.
Hướng tới hoàn thiện khung pháp lý cho tiền ảo và tiền điện tử, ngày 21/8/2017, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 1255/QĐ-TTg phê duyệt Đề án “Hoàn thiện khung pháp lý để quản lý, xử lý đối với các loại tài sản ảo, tiền điện tử, tiền ảo”. NHNN hiện đang tích cực nghiên cứu triển khai để sớm trình Thủ tướng đề xuất thiết lập khung khổ pháp lý cụ thể cho vấn đề này.
Bên cạnh đó, NHNN đã và đang phối hợp chặt chẽ với Bộ Tư pháp trong việc đề xuất khung khổ quản lý, xử lý đối với tiền ảo tại Việt Nam. Khi khung khổ pháp lý, quản lý về tiền ảo đã chính thức thiết lập và có hiệu lực thi hành, NHNN sẽ có đối xử cụ thể hơn đối với lĩnh vực, hoạt động tiền ảo tại Việt Nam.
Nền kinh tế Việt Nam chưa thoát khỏi sự phụ thuộc vào dòng vốn tín dụng do thị trường vốn chưa đạt mức độ phát triển cao. NHNN có giải pháp gì với tư cách cơ quan chủ trì và cơ quan phối hợp để hoàn thiện hơn thị trường tài chính?
Thực tế hiện nay, vốn cung ứng cho nền kinh tế chủ yếu vẫn dựa vào dòng vốn tín dụng ngân hàng do thị trường chứng khoán và trái phiếu chưa phát triển được hết tiềm năng (mặc dù quy mô vốn hóa của thị trường cổ phiếu đã đạt khoảng 82% GDP). Điều này đã và đang tạo ra sức ép và rủi ro cho các tổ chức tín dụng trong bối cảnh tín dụng trung dài hạn chiếm tỷ trọng cao, trong khi huy động vốn của các tổ chức tín dụng chủ yếu là ngắn hạn.
Trong thời gian tới, NHNN tiếp tục thực hiện các giải pháp điều hành chính sách tiền tệ phối hợp chặt chẽ với các bộ, ngành nhằm tạo điều kiện phát triển thị trường trái phiếu, thị trường chứng khoán thông qua hỗ trợ doanh nghiệp huy động vốn qua phát hành trái phiếu, giảm áp lực lên nguồn vốn tín dụng ngân hàng trên thị trường tiền tệ.
Đồng thời, tăng cường phối hợp giữa chính sách tiền tệ và chính sách tài khóa để tạo điều kiện cho ngân sách nhà nước huy động vốn qua phát hành trái phiếu chính phủ; phối hợp chặt chẽ với Bộ Tài chính hoàn thiện các cơ chế, chính sách để phát triển thị trường trái phiếu và thị trường chứng khoán; phối hợp triển khai Đề án phát triển thị trường vốn Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020, Chiến lược phát triển thị trường chứng khoán giai đoạn 2011-2020, Lộ trình phát triển thị trường trái phiếu giai đoạn 2017-2020, tầm nhìn đến năm 2030 và Đề án xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán phái sinh Việt Nam theo chủ trương, chỉ đạo của Chính phủ...