Bà Nguyễn Thị Hồng

Bà Nguyễn Thị Hồng

Phó thống đốc Nguyễn Thị Hồng: Năm 2015 sẽ tiếp tục đẩy mạnh tái cơ cấu ngành ngân hàng

(ĐTCK) Thẳng thắn đề cập đến những vấn đề nóng của thị trường tài chính - ngân hàng trong cuộc phỏng vấn của Báo Đầu tư Chứng khoán nhân dịp đầu Xuân 2015, bà Nguyễn Thị Hồng, Phó Thống đốc Ngân hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam cũng đồng thời cho biết các giải pháp đi kèm. Theo đó, NHNN đã sẵn sàng cho một năm 2015 đầy ắp công việc và thách thức… nhưng không có nghĩa là không thể vượt qua.

Thận trọng với mục tiêu kinh tế vĩ mô

Lạm phát năm qua là khá thấp, theo bà, nguyên nhân chính có phải do điều hành của NHNN?

Lạm phát năm 2014 được kiềm chế ở mức thấp, theo đánh giá của Chính phủ, không phải là do nguyên nhân từ phía tồng cầu sụt giảm.

Nguyên nhân là: Thứ nhất, kết quả của việc kiên định và nỗ lực triển khai các giải pháp điều hành kinh tế vĩ mô theo mục tiêu kiểm soát lạm phát và ổn định kinh tế vĩ mô của Chính phủ.

Thứ hai, lạm phát năm 2014 tăng chậm còn do giá cả hàng hóa cơ bản trên thị trường quốc tế có xu hướng giảm, giúp giảm giá nhiều mặt hàng nhập khẩu thiết yếu là đầu vào sản xuất của Việt Nam; cân đối cung - cầu hàng hóa tiếp tục được đảm bảo và không có đột biến.

Thứ ba, công tác quản lý giá được thực hiện tốt trong năm 2014 nên đã giảm thiểu tác động bất lợi đến lạm phát.

Thứ tư, chính sách tiền tệ được điều hành hợp lý, khá ổn định và không tạo áp lực tăng lạm phát, phản ánh qua các chỉ tiêu tiền tệ như tổng phương tiện thanh toán, tín dụng được kiểm soát ở mức hợp lý, ngay cả khi điều hành giảm mặt bằng lãi suất và đưa một lượng lớn tiền ra mua ngoại tệ. 

Quốc hội đã thông qua các mục tiêu kinh tế năm 2015, trong đó lạm phát là 5%, tăng trưởng kinh tế là 6,2%. Theo bà, mục tiêu này có khó khăn không?

Trong bối cảnh kinh tế thế giới phục hồi chưa bền vững, kinh tế vĩ mô trong nước đã có cải thiện, nhưng hoạt động sản xuất - kinh doanh của DN còn khó khăn, quá trình tái cơ cấu nền kinh tế vẫn đang tiếp tục thì mục tiêu Quốc hội đề ra cho năm 2015 về kiểm soát lạm phát, tăng trưởng kinh tế là tương đối cao.

Cụ thể, đối với việc kiểm soát lạm phát, mặc dù lạm phát thế giới ở mức thấp, thuận cho việc kiểm soát lạm phát trong nước, nhưng việc điều chỉnh giá các mặt hàng Nhà nước quản lý, dự kiến sẽ thực hiện trong năm 2015, cùng với tác động trễ của lượng tiền cung ứng đưa ra mua ngoại tệ trong năm 2014, sẽ tạo áp lực tới lạm phát nếu không có biện pháp kiểm soát tốt.

Đối với mục tiêu tăng trưởng kinh tế 6,2%, muốn đạt được, ta phải có sự cải thiện về lượng (khối lượng vốn đầu tư) và về chất (hiệu quả đầu tư). Tuy nhiên, trong bối cảnh hiện nay, khi sức hấp thụ vốn của nền kinh tế đang ở mức thấp thì để đạt được mục tiêu này cũng là một thách thức. Bởi vậy, cần có sự phối hợp, triển khai đồng bộ các giải pháp chính sách giữa các bộ, ngành để tiếp tục tháo gỡ khó khăn cho sản xuất - kinh doanh, nâng cao sức hấp thụ vốn của DN, khơi thông dòng vốn tín dụng.

Để góp phần thực hiện mục tiêu Quốc hội đề ra, NHNN sẽ tiếp tục kiên định với mục tiêu: thực hiện chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, phối hợp chặt chẽ với các chính sách vĩ mô khác để đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an toàn hoạt động của hệ thống ngân hàng, đồng thời thực hiện các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho DN, người dân để hỗ trợ tăng trưởng kinh tế, nhưng không chủ quan với những diễn biến của lạm phát.

Bám sát mục tiêu của Quốc hội, NHNN sẽ tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chủ động và linh hoạt nhằm mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý 

Đẩy nhanh tiến độ xử lý nợ xấu

Để lưu thông dòng vốn tín dụng, xử lý nợ xấu là khâu rất quan trọng. Tuy nhiên, vừa qua, dư luận nghi ngại về các số liệu khác nhau sẽ ảnh hưởng đến quá trình xử lý nợ xấu. Quan điểm của bà thế nào?

Trước hết, phải nói rằng, các số liệu về tiền tệ, tín dụng là những con số thay đổi hàng ngày, thậm chí hàng giờ, vì trên thực tế, hệ thống ngân hàng là trung gian tài chính, một chiều nhận tiền gửi của DN và người dân, một chiều khác lại cho DN và người dân vay. Con số nợ xấu cũng vậy, phát sinh hàng ngày và bởi vậy, các số liệu công bố vào các thời điểm khác nhau là khác nhau.

Ngoài ra, số liệu nợ xấu của TCTD báo cáo và số liệu nợ xấu theo đánh giá của NHNN để phục vụ điều hành có thể khác nhau. Tuy nhiên, chúng ta cũng không nên băn khoăn, vì mỗi con số có phạm vi tính khác nhau, quan trọng là hiểu đúng bản chất số liệu để sử dụng cho đúng.

Số liệu nợ xấu do TCTD báo cáo thường phân theo số ngày quá hạn. Một số TCTD đánh giá trên cơ sở kết hợp với đánh giá định tính về khả năng trả nợ của khách hàng. Trên thực tế, Cơ quan Thanh tra giám sát ngân hàng có đánh giá nợ xấu trên cơ sở khắt khe và chặt chẽ hơn. Chẳng hạn, nếu một khách hàng vay ở nhiều ngân hàng mà có một khoản vay tại một ngân hàng bị nợ xấu thì tất cả các khoản vay ở các ngân hàng còn lại cũng sẽ được tính vào nợ xấu... Như vậy, số liệu nợ xấu theo kết quả giám sát của NHNN thường cao hơn số liệu nợ xấu theo báo cáo của các TCTD và được NHNN sử dụng trong công tác quản lý, giám sát hoạt động ngân hàng.

Trong quá trình xây dựng Đề án Xử lý nợ xấu hệ thống TCTD, NHNN đã báo cáo Bộ Chính trị, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ đầy đủ tình hình nợ xấu của hệ thống ngân hàng. Bên cạnh đó, thời gian qua, NHNN thường xuyên báo cáo Thủ tướng Chính phủ, Quốc hội và các cơ quan chức năng có thẩm quyền số liệu nợ xấu theo báo cáo của TCTD và số liệu nợ xấu qua giám sát của NHNN cũng như tình hình, tiến độ xử lý nợ xấu.

Tuy nhiên, với quy định mới chặt chẽ hơn về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng rủi ro được áp dụng từ ngày 1/6/2014, cùng với việc tăng cường các biện pháp thanh tra, giám sát của NHNN, số liệu nợ xấu do các TCTD báo cáo đã phản ánh chính xác, minh bạch hơn chất lượng tín dụng của hệ thống ngân hàng và chênh lệch giữa số giám sát của NHNN với số liệu báo cáo của TCTD được thu hẹp dần.

NHNN sẽ triển khai các giải pháp gì để đạt mục tiêu tỷ lệ nợ xấu toàn ngành vào cuối năm 2015 khoảng 3%?

Để đạt được mục tiêu tỷ lệ nợ xấu đến cuối năm 2015 ở mức khoảng 3% tổng dư nợ cho vay của hệ thống các TCTD, thời gian tới, NHNN tiếp tục chỉ đạo đẩy nhanh tiến độ xử lý nợ xấu gắn với cơ cấu lại các TCTD theo hướng: tập trung hoàn thiện khuôn khổ pháp lý, tạo thuận lợi cho việc xử lý nợ xấu, nhất là quy định về mua, bán, xử lý nợ, tài sản bảo đảm, trách nhiệm của người đi vay và quyền hạn của chủ nợ; hoàn thiện chức năng, tăng cường tiềm lực tài chính, nâng cao năng lực, phát huy vai trò của VAMC, trong đó có việc mua bán nợ theo cơ chế thị trường; phát triển mạnh thị trường mua bán nợ, khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia mua - bán nợ xấu; yêu cầu các TCTD công khai, minh bạch về nợ xấu và kết quả xử lý, thực hiện các giải pháp kiểm soát chất lượng tín dụng, hạn chế nợ xấu gia tăng; tăng cường thanh tra, giám sát về nợ xấu, chất lượng tín dụng và việc thực hiện quy định pháp luật về phân loại nợ, trích lập dự phòng rủi ro...

Đồng thời với các giải pháp nêu trên, việc tiếp tục đẩy mạnh tái cơ cấu nền kinh tế, tái cơ cấu DNNN, tháo gỡ khó khăn cho DN, thúc đẩy sản xuất - kinh doanh, hỗ trợ thị trường là những điều kiện rất quan trọng để thực hiện mục tiêu đến cuối năm 2015 đưa tỷ lệ nợ xấu xuống còn khoảng 3%.

Vậy, kế hoạch tái cơ cấu hệ thống các TCTD trong năm 2015 ra sao, thưa bà?

Cơ cấu lại hệ thống các TCTD nói chung và từng TCTD nói riêng là một quá trình thường xuyên, liên tục, nhằm khắc phục những khó khăn, tồn tại và chủ động đối phó với những thách thức. Trên cơ sở Đề án Cơ cấu lại hệ thống các TCTD giai đoạn 2011 - 2015, năm 2015, NHNN sẽ tập trung triển khai một số nội dung chính như:

Tạo điều kiện thúc đẩy triển khai các phương án sáp nhập, hợp nhất, mua lại các TCTD trên cơ sở tự nguyện và đúng pháp luật, trong đó nâng cao vai trò chủ đạo của các NHTM nhà nước thông qua việc các NHTM nhà nước tham gia tích cực vào quá trình sáp nhập, hợp nhất, mua lại các TCTD khác, gắn với việc thực hiện Nghị quyết số 15/NQ-CP ngày 6/3/2014 của Chính phủ và Quyết định số 51/2014/QĐ-TTg ngày 15/9/2014 của Thủ tướng Chính phủ; xử lý tiếp một bước cơ bản tình trạng sở hữu chéo để hình thành một số TCTD có quy mô lớn, khả năng cạnh tranh cao theo mục tiêu tại Đề án 254; kiên quyết xử lý pháp nhân theo luật định những TCTD yếu kém không có triển vọng phục hồi và phát triển, kể cả giải thể, phá sản, can thiệp bắt buộc.

Tiếp tục đẩy nhanh tiến độ xử lý nợ xấu gắn với cơ cấu lại các TCTD và lành mạnh hóa tài chính, tăng vốn điều lệ của TCTD; nâng cao năng lực quản trị, điều hành, hệ thống quản trị rủi ro, hệ thống kiểm toán, kiểm soát nội bộ đi đôi với tiếp tục hiện đại hóa công nghệ ngân hàng.

Xây dựng và triển khai Đề án nâng cao năng lực tài chính (với trọng tâm là tăng vốn điều lệ) của các NHTM nhà nước năm 2015; tăng cường thanh tra, kiểm tra và giám sát chặt chẽ việc thực hiện phương án cơ cấu lại của các TCTD đã được phê duyệt; hỗ trợ, xử lý kịp thời các vướng mắc phát sinh để đảm bảo các TCTD cơ cấu lại thành công.

Phối hợp với các tập đoàn kinh tế, tổng công ty nhà nước cơ cấu lại các công ty con là công ty tài chính, công ty cho thuê tài chính yếu kém gắn với thực hiện thoái vốn đầu tư trong lĩnh vực ngân hàng, nhằm thúc đẩy sáp nhập, hợp nhất và tăng cường quy mô, năng lực tài chính của TCTD.

- Ban hành các chuẩn mực mới về quản trị ngân hàng phù hợp với thông lệ, chuẩn mực quốc tế, đồng thời triển khai các bước tiến tới áp dụng Basel II; hoàn thiện các quy định về tổ chức và hoạt động của một số loại hình TCTD.

Đẩy mạnh cơ cấu lại ngân hàng hợp tác xã và quỹ tín dụng nhân dân (QTDND), kiên quyết xử lý các QTDND yếu kém, tiềm ẩn nhiều rủi ro.

Hướng đến đa dạng hóa người nắm giữ TPCP

Việc NHNN ban hành Thông tư số 36 quy định về các giới hạn, tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động ngân hàng của TCTD, chi nhánh ngân hàng nước ngoài với các quy định cụ thể và chặt chẽ nhằm kiểm soát dòng tín dụng chảy vào cổ phiếu được thị trường đánh giá cao. Tuy nhiên, với công cụ trái phiếu, cũng là một loại chứng khoán, quan điểm của bà như thế nào trước thực tế các ngân hàng rót vốn rất mạnh vào trái phiếu chính phủ (TPCP)? NHNN có kiểm soát vốn ngân hàng chảy vào TPCP?

Trong vài năm qua, tình hình kinh tế và hoạt động sản xuất - kinh doanh của DN còn nhiều khó khăn, bởi vậy, các TCTD gặp nhiều khó khăn trong việc mở rộng tín dụng. Trong điều kiện nguồn vốn huy động từ nền kinh tế vẫn tăng trưởng khá cao, tín dụng khó mở rộng, các TCTD đã tăng cường nắm giữ TPCP và coi đây là một kênh đầu tư an toàn. Việc đầu tư mạnh của các TCTD vào TPCP đã góp phần thực hiện thành công kế hoạch huy động vốn của Chính phủ thông qua phát hành trái phiếu để gia tăng đầu tư phát triển quốc gia.

Tuy nhiên, việc đầu tư nhiều vào TPCP cũng có thể tạo ra vấn đề. Ví dụ như nguồn vốn huy động của TCTD chủ yếu là vốn ngắn hạn, nên nếu đầu tư nhiều cho trung - dài hạn thông qua mua TPCP thì có thể khiến các TCTD đối mặt với mất cân đối kỳ hạn, làm tăng rủi ro thanh khoản. Vào những thời điểm chính sách tiền tệ phải thực hiện theo hướng thắt chặt để kiểm soát lạm phát thì dù có nắm giữ nhiều TPCP, các TCTD cũng khó sử dụng để vay vốn từ NHNN.

Thông tư số 36 quy định tỷ lệ nắm giữ TPCP so với nguồn vốn ngắn hạn của TCTD. Tỷ lệ này được NHNN xác định trên cơ sở kế hoạch phát hành trái phiếu của Chính phủ hàng năm, số dư đầu tư trái phiếu hiện nay của các TCTD và yêu cầu tăng trưởng tín dụng cho nền kinh tế để bảo đảm mục tiêu điều hành chính sách kinh tế vĩ mô và an toàn hoạt động của TCTD. Với quy định này, thị trường TPCP cũng cần hướng đến việc đa dạng hóa người nắm giữ, không nên quá tập trung vào hệ thống ngân hàng (ở Việt Nam, hệ thống TCTD nắm giữ 80 - 90% TPCP, ở các nước tỷ lệ này thấp hơn rất nhiều).

Một trong những mục tiêu mà ngành chứng khoán hướng đến trong năm 2015 là nâng hạng TTCK Việt Nam trên trường quốc tế từ mức thị trường cận biên lên thị trường mới nổi. Tuy nhiên, ngoài nỗ lực của ngành chứng khoán (thu hút các DN có vốn hóa trên 1 tỷ USD, đạt thanh khoản cao...), cần có những điều kiện về độ mở của chính sách tiền tệ. Vậy NHNN có sẵn sàng hỗ trợ TTCK Việt Nam nâng hạng trên thị trường quốc tế, mở rộng cơ hội thu hút vốn ngoại vào Việt Nam?

Có thể nói, trong thời gian qua, với việc thực thi đồng bộ các giải pháp điều hành chính sách vĩ mô của Chính phủ, trong đó có chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt của NHNN, diễn biến kinh tế vĩ mô của nước ta đã có những cải thiện tích cực, lạm phát tiếp tục ổn định ở mức thấp, tăng trưởng kinh tế năm 2014 cải thiện so với năm 2012 và 2013, thị trường tiền tệ và hoạt động ngân hàng ổn định, thông suốt, cán cân thanh toán tiếp tục thặng dư ở mức cao, dự trữ ngoại hối nhà nước tăng lên mức cao kỷ lục, ổn định kinh tế vĩ mô được tăng cường.

Đây là các kết quả đã được các tổ chức quốc tế đánh giá cao, qua đó tiếp tục củng cố sự tin tưởng của nhà đầu tư nước ngoài vào sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô, thể hiện ở luồng vốn vào Việt Nam tiếp tục gia tăng trong năm nay.

Năm 2015, Quốc hội tiếp tục đặt mục tiêu tăng cường ổn định kinh tế vĩ mô, tập trung tháo gỡ khó khăn cho sản xuất - kinh doanh, kiểm soát lạm phát ở mức khoảng 5% và tăng trưởng kinh tế đạt khoảng 6,2%. Bám sát mục tiêu của Quốc hội, NHNN sẽ tiếp tục điều hành chính sách tiền tệ chủ động và linh hoạt nhằm mục tiêu kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô và hỗ trợ tăng trưởng kinh tế ở mức hợp lý.

Như vậy, các kết quả thuận lợi đạt được trong năm 2014 và sự kiên định chính sách ổn định kinh tế vĩ mô của Quốc hội, Chính phủ trong năm 2015 sẽ tiếp tục là những điều kiện thuận lợi để TTCK phát triển ổn định, thu hút các nhà đầu tư nước ngoài.

Tin bài liên quan