Thị trường tài chính 24h: Trò đùa ngày Cá tháng Tư

Thị trường tài chính 24h: Trò đùa ngày Cá tháng Tư

(ĐTCK) Hôm nay, ngày Cá tháng Tư (1/4), khi mà giới tài chính nhìn lại quý I và nói lên những kỳ vọng về một quý II tốt đẹp hơn thì chứng khoán đã phá hủy tất cả. Một "trò đùa" của thị trường đã xảy ra, nhưng xem ra trò đùa này đã quá tay.

Chuyển động thị trường:

- TTCK Việt Nam giảm mạnh: Sau phiên hồi phục hôm qua, TTCK Việt Nam gần như lao dốc, đánh mất mọi nỗ lực của phiên hôm qua khi mọi lực đỡ đều không còn tác dụng.

Dẫn đầu trong đà giảm này phải kể đến nhóm cổ phiếu dầu khí với hai đầu tàu chính là GAS và PVD. Tiếp đến là nhóm ngân hàng, chứng khoán, bất động sản cũng không thấy có điểm sáng.

Điểm đáng chú ý trong phiên hôm nay, là độ rộng của thị trường khá lớn. Trong những phiên điều chỉnh trước đó, gần như việc giảm điểm của thị trường bị ảnh hưởng bởi một số mã trụ lớn, nhưng hôm nay, xu hướng này diễn ra trên diện rộng, ngay ở những mã cổ phiếu vừa và nhỏ.

Đặc biệt, lực bán tháo xuất hiện mạnh trên các cổ phiếu có tính đầu cơ như FLC, HAI, VHG, FIT, KLF… Trong đó, FLC và HAI đã bị kéo xuống mức giá sàn.

Kết thúc phiên giao dịch, VN-Index giảm 12,12 điểm (-2,22%) xuống 538,91 điểm; HNX-Index giảm 1,8 điểm (-2,19%), xuống 80,47 điểm.

Hôm nay, khối ngoại đã mua ròng 10.613.310 đơn vị với tổng giá trị tương ứng 173,17 tỷ đồng, gấp gần 3,9 lần về lượng và hơn 119 lần về giá trị so với phiên trước.

- TTCK Mỹ giảm. Phiên giao dịch cuối cùng của quý I, chứng khoán phố Wall ghi nhận đà giảm. Theo đó, cả 10 nhóm ngành của chỉ số S&P 500 đều giảm điểm, mà dẫn đầu là ngành chăm sóc sức khỏe với mức giảm 1,5%. Cổ phiếu ngành năng lượng cũng giảm 0,9% khi giá dầu thô giảm.

Đóng cửa phiên giao dịch (sáng sớm hôm ¼ theo giờ Việt Nam), chỉ số công nghiệp Dow Jones giảm 200,19 điểm, tương đương 1,11%, xuống 17.776,12 điểm. Chỉ số S&P 500 giảm 18,35 điểm, hay 0,88%, xuống 2.067,89 điểm. Chỉ số Nasdaq giảm 46,56 điểm, tương ứng 0,94%, xuống 4.900,88 điểm.

Hiện nhà đầu tư đang tập trung chú ý vào báo cáo việc làm tháng 3/2015 công bố ngày 3/4. Nếu số liệu này khả quan, Cục Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) có thể sẽ nâng lãi suất sớm hơn dự đoán hiện tại.

- TTCK châu Á tăng giảm đan xen. Chỉ số Nikkei trên TTCK Nhật Bản giảm 172,15 điểm (-0,90%) xuống 19.034,84 điểm; chỉ số KOSPI của Hàn Quốc cũng giảm 12,58 điểm (-0,62%) xuống 2.028,45 điểm. Trong khi đó, 2 chỉ số chứng khoán của Trung Quốc tăng sau khi chỉ số PMI của nước này chính thức được công bố đạt 50,1 điểm, cao hơn tháng 2 (49,9 điểm) và dự đoán của các chuyên gia (49.7 điểm). Con số trên 50 điểm là dấu hiệu của nền kinh tế ổn định và có tiềm năng tăng trưởng. Theo đó, chỉ số Shanghai Composite trên TTCK Thượng Hải (Trung Quốc) tăng 62,39 điểm (+1,66%) lên 3.810,29 điểm; Chỉ số Hang Seng trên TTCK Hồng Kong tăng 181,86 điểm (+0,73%) lên 25.082,75 điểm.

- Giá vàng SJC tăng 30.000 đồng/lượng: Trái ngược với đà giảm của vàng thế giới, mở cửa phiên sáng nay, giá vàng trong nước tăng 40.000 đồng/lượng, lên 35,13 - 35,21 triệu đồng/lượng. Sau đó, đà tăng được nhích nhẹ lên mức 35,14 – 35,22 triệu đồng trước khi giảm về 35,12 – 35,20 triệu đồng/lượng vào cuối giờ chiều.

Trong khi đó, kim loại quý này gần như đi ngang khi bước vào phiên giao dịch trên thị trường châu Á. Đến khoảng 16h30 (theo giờ Việt Nam), giá vàng giao dịch trên sàn kitco ở mức 1.180,3 USD/oz.

Giá vàng thế giới tiếp tục đứng ở mức thấp trước áp lực tăng mạnh của chỉ số USD và chỉ số chứng khoán toàn cầu. Bên cạnh đó, ngân hàng Nhân dân Trung Quốc bất ngờ giảm lãi suất cho vay hàng năm do sự gia tăng áp lực giá cả giảm phát. Điều này làm gia tăng giá cả cho thị trường hàng hóa nguyên liệu khi quốc gia này là một nước nhập khẩu hàng hóa nguyên liệu chính.

Các nhà đầu tư đang trông chờ dữ liệu việc làm ở Mỹ mà sẽ được công bố vào thứ Sáu, với một báo cáo mạnh mẽ có khả năng làm tăng khả năng tăng lãi suất sớm.

Các nhà kinh tế được khảo sát bởi Reuters dự báo con số việc làm sẽ đạt 245.000 trong tháng ba. Con số này đã tăng lên 295.000 trong tháng hai, đánh dấu tháng 12 liên tiếp dữ liệu việc làm vượt quá mốc 200.000.

Trên thị trường ngoại hối, tỷ giá VND/USD vẫn chưa dấu hiệu dừng tăng. Hầu hết tỷ gia do các ngân hàng TMCP niêm yết giá USD bán ra đã vượt qua ngưỡng trần của NHNN, còn ở khối ngân hàng cổ phần nhà nước, giá USD của Vietinbank cũng đã vượt qua mức 21.600. Tỷ giá USD/VND tham khảo tại một số ngân hàng:

Ngân hàng

Tỷ giá (đồng/USD)

Tăng giảm (đồng/USD)

Mua vào

Bán ra

Mua vào

Bán ra

Vietcombank

21.535

21.595


BIDV

21.530

21.590


Vietinbank

21.555

21.615


Argibank

21.510

21.590


Techcombank

21.520

21.605


Eximbank

21.520

21.600


MBB

21.460

21.620


ACB

21.530

21.610


Sở GD NHNN

21.350

21.600


Tỷ giá bình quân liên ngân hàng: 1USD = 21.458 đồng

- Thị trường trái phiếu thứ cấp tại Sở GDCK Hà Nội hôm nay có tổng cộng 48 triệu trái phiếu, trị giá 5.115 tỷ đồng được giao dịch, cụ thể như sau (xem bảng).

Mã TP

Thời hạn
còn lại

Lợi suất
(%/năm)

KLGD

GTGD

TD1416063

12 Tháng

4,6303

500.000

50.906.000.000

TD1416061

12 Tháng

4,6094

1.000.000

103.052.000.000

TD1316011

12 Tháng

4,6004

500.000

52.398.000.000

TD1116054

12 Tháng

4,8297

500.000

58.609.500.000

TD1316013

12 Tháng

4,6699

1.500.000

156.118.500.000

TD1416061

12 Tháng

4,6005

1.000.000

103.059.000.000

TD1416063

12 Tháng

4,6303

1.000.000

101.812.000.000

TD1416061

12 Tháng

4,6502

1.500.000

154.530.000.000

TD1316018

12 Tháng

4,7502

500.000

53.857.000.000

TD1416067

12 Tháng

4,7

500.000

52.637.000.000

TD1215176

9 Tháng

4,6501

1.500.000

158.901.000.000

TD1315010

9 Tháng

4,6498

1.714.667

178.481.402.697

TD1417073

2 Năm

4,8501

1.000.000

103.891.000.000

TD1217038

2 Năm

4,92

500.000

58.441.000.000

TD1417074

2 Năm

4,8998

500.000

51.424.500.000

TD1217038

2 Năm

4,92

500.000

58.441.000.000

TD1316019

2 Năm

4,8501

500.000

53.616.000.000

TD1417076

2 Năm

4,9899

3.000.000

323.931.000.000

TD1417073

2 Năm

4,7999

500.000

51.991.500.000

TD1417076

2 Năm

4,9301

500.000

54.046.000.000

TD1417075

2 Năm

4,9001

1.000.000

102.261.000.000

TD1217002

2 Năm

4,8502

500.000

57.364.000.000

TD1316019

2 Năm

4,8197

500.000

53.639.500.000

TD1417073

2 Năm

4,8697

500.000

51.927.500.000

TD1417076

2 Năm

4,9899

1.000.000

107.977.000.000

TD1417080

2 Năm

4,95

2.500.000

260.337.500.000

TD1417071

2 Năm

4,85

500.000

52.713.500.000

TD1417079

2 Năm

4,8999

500.000

53.010.500.000

TD1417077

2 Năm

4,92

500.000

53.700.500.000

TD1417076

2 Năm

4,9301

500.000

54.046.000.000

TD1217016

2 Năm

4,9002

500.000

56.255.000.000

TD1316019

2 Năm

4,8902

2.500.000

267.925.000.000

TD1417073

2 Năm

4,8998

500.000

51.900.000.000

TD1417076

2 Năm

4,9

1.000.000

108.150.000.000

TD1417078

2 Năm

4,9001

500.000

53.539.000.000

TD1419088

3 - 5 Năm

5,36

1.500.000

163.608.000.000

TD1419087

3 - 5 Năm

5,36

1.500.000

165.985.500.000

TD1419087

3 - 5 Năm

5,3399

2.000.000

221.470.000.000

TD1419082

3 - 5 Năm

5,15

500.000

55.207.000.000

TD1419088

3 - 5 Năm

5,35

1.000.000

109.111.000.000

TD1419088

3 - 5 Năm

5,4001

300.000

32.674.800.000

TD1419085

3 - 5 Năm

5,2199

1.800.000

203.495.400.000

TD1530287

15 Năm

7,45

283.018

28.612.270.746

TD1525279

10 Năm

6,42

500.000

50.209.500.000

TD1417166

3 Năm

5,0498

500.000

50.941.500.000

BVDB14123

3 Năm

5,3999

1.000.000

103.267.000.000

TD1318022

3 Năm

5,1499

1.000.000

111.273.000.000

TD1520259

5 Năm

5,4199

500.000

50.400.000.000

TD1520259

5 Năm

5,43

500.000

50.379.000.000

TD1520259

5 Năm

5,4199

500.000

50.400.000.000

TD1520259

5 Năm

5,4199

500.000

50.400.000.000

TD1520260

5 Năm

5,4201

500.000

50.075.000.000

TD1520261

5 Năm

5,4201

500.000

49.766.000.000

TD1419090

5 Năm

5,3799

1.000.000

100.557.000.000

TD1520256

5 Năm

5,4099

500.000

51.836.000.000

Tin bài liên quan