Tiềm năng phát triển của quỹ mở là qua kênh phân phối của các ngân hàng

Tiềm năng phát triển của quỹ mở là qua kênh phân phối của các ngân hàng

Quỹ mở: tăng hiệu quả nhờ ngân hàng

(ĐTCK) Các quỹ như MBVF, VFF, VCBF-BCF, VCBF-TBF… có mức tăng trưởng số lượng chứng chỉ quỹ phát hành trong 6 tháng đầu năm 2016 trên 20%, một phần là nhờ kênh phân phối chứng chỉ quỹ qua ngân hàng.

Nhiều quỹ mở tăng trưởng cao hơn thị trường

Theo thống kê, các công ty quản lý quỹ trong nước đang quản lý 18 quỹ mở, trong đó có 5 quỹ đầu tư trái phiếu, 4 quỹ cân bằng và 9 quỹ đầu tư cổ phiếu. Tổng quy mô của các quỹ hiện đạt hơn 2.400 tỷ đồng.

Các quỹ trái phiếu thường được so sánh mức sinh lời với lãi suất tiết kiệm ngân hàng, do các quỹ này có độ an toàn cao; các quỹ cổ phiếu thường được so sánh với chỉ số VN-Index; các quỹ cân bằng hoặc năng động thường kỳ vọng sinh lời bằng trung bình lợi nhuận của hai thị trường trái phiếu và cổ phiếu; trong khi đó, quỹ ETF đặt mục tiêu mô phỏng sát với chỉ số cơ sở. Với cách tham chiếu đó, phần lớn các quỹ mở có kết quả hoạt động tốt hơn thị trường.

"Các công ty quản lý quỹ không đủ nguồn nhân lực để đẩy mạnh phát triển quỹ mở, nên thông qua liên kết với các ngân hàng sẽ tận dụng được kênh phân phối rộng lớn, đem sản phẩm tới cho khách hàng"

- Ông Phạm Ngọc Quang, Trưởng phòng Phát triển sản phẩm, Công ty Quản lý quỹ Bảo Việt.

Tính riêng 6 tháng đầu năm nay, ngoại trừ Quỹ VFMVFA có tăng trưởng giá trị tài sản ròng trên mỗi chứng chỉ quỹ (NAV/CCQ) âm, thì các quỹ VCBF-BCF và VCBF-TBF của Vietcombank, Quỹ VF1 và VF4 của VFM, Quỹ SSI-SCA của SSIAM đều có tăng trưởng NAV/CCQ trên 12%, cao hơn với mức tăng của các chỉ số chứng khoán.

Các quỹ lựa chọn chiến lược đầu tư mô phỏng theo chỉ số như BVFED, hay hai quỹ ETF là VFMVN30 và SSIAMHNX30 cũng ghi nhận kết quả hoạt động khả quan. NAV/CCQ của BVFED tăng 5,9%, NAV/CCQ của VFMVN30 tăng 4,5%, cao hơn mức tăng 4,4% của chỉ số VN30.

Đối với các quỹ mở trái phiếu, xu hướng lãi suất thấp kéo dài từ năm 2015 cho đến nay và ít biến động, mặt bằng lãi suất ở mức gần như thấp nhất trong 3 năm trở lại đây đã ảnh hưởng không nhỏ tới hiệu quả đầu tư của các quỹ. Trong 6 tháng đầu năm, quỹ có mức tăng trưởng NAV/CCQ cao nhất là VFF với mức tăng 4,84% và thấp nhất là MBBF với mức tăng 1,65%. Riêng Quỹ BVBF của Baoviet Fund, tính đến cuối tháng 6 mới hoạt động được hơn 1 tháng, nhưng đạt mức tăng trưởng NAV/CCQ khá cao là 3,02%. 

Triển vọng phân phối chứng chỉ quỹ qua kênh ngân hàng

Với hiệu quả đầu tư được đánh giá là tốt so với mức trung bình thị trường, nhưng hoạt động huy động vốn mới của các quỹ mở gặp không ít khó khăn. Tuy nhiên, hoạt động này trong thời gian gần đây đang có sự cải thiện. Có thể kể đến quỹ đầu tư giá trị MB Capital (MBVF), Quỹ đầu tư trái phiếu Bảo Thịnh (VFF), hay các quỹ của Vietcombank. Các quỹ này đều có mức tăng trưởng số lượng chứng chỉ quỹ phát hành trong 6 tháng đầu năm 2016 hơn 20%.

Trong cuộc trao đổi với Báo Đầu tư Chứng khoán gần đây, đại diện MB Capital cho biết, ngoài hiệu quả đầu tư của các quỹ, kết quả này còn đến từ việc các công ty quản lý quỹ tăng cường tiếp cận khách hàng bằng việc mở thêm các kênh phân phối chứng chỉ quỹ qua ngân hàng, công ty bảo hiểm. Bên cạnh đó, sự hoàn thiện khung pháp lý cho thị trường chứng khoán Việt Nam trong thời gian qua tạo điều kiện cho công ty quản lý quỹ có thêm cơ sở để triển khai, quảng bá các sản phẩm ra công chúng nhà đầu tư.

Sự liên kết phân phối chứng chỉ quỹ với ngân hàng đã và đang được triển khai như MBBank liên kết phân phối chứng chỉ quỹ mở MBBF, MaritimeBank phân phối chứng chỉ quỹ mở của VinaWealth, mới đây nhất là VinaWealth ký kết thỏa thuận cung cấp sản phẩm đầu tư quỹ mở đến các khách hàng của SCB.

Theo đánh giá của ông Phạm Ngọc Quang, Trưởng phòng Phát triển sản phẩm, Công ty Quản lý quỹ Bảo Việt, việc triển khai phân phối chứng chỉ quỹ mở thông qua kênh ngân hàng, bảo hiểm sẽ mang lại nhiều điểm lợi, bởi công ty quản lý quỹ không thể tự phát triển kênh phân phối với nguồn nhân lực lên tới hàng nghìn người như các ngân hàng để đem sản phẩm quỹ mở đến gần hơn với người dân.

Về phía ngân hàng, lợi ích từ việc hợp tác phân phối sản phẩm của các quỹ đầu tư là ngân hàng thu được khoản phí hoa hồng không nhỏ, khoản này tuy thấp hơn so với cho vay, nhưng ngân hàng không phải trích lập dự phòng nợ xấu mà ghi nhận ngay vào lợi nhuận. Bên cạnh đó, phân phối sản phẩm của các quỹ đầu tư sẽ giúp ngân hàng gia tăng cơ hội giữ chân khách hàng trong trường hợp lãi suất tiền gửi tiết kiệm ở mức thấp.

Về phía nhà đầu tư mua chứng chỉ quỹ qua ngân hàng, khi có nhu cầu rút vốn thì chỉ mất phí ở mức thấp so với việc rút trước hạn của sổ tiết kiệm.

Việc liên kết giữa công ty quản lý quỹ và ngân hàng được xem là giải pháp tích cực cho cả 3 bên. Nhiều ý kiến đánh giá, tiềm năng phát triển của quỹ mở là qua kênh phân phối của các ngân hàng.

“Các công ty quản lý quỹ không đủ nguồn nhân lực để đẩy mạnh phát triển quỹ mở, nên thông qua liên kết với các ngân hàng sẽ tận dụng được kênh phân phối rộng lớn, đem sản phẩm tới cho khách hàng. Trong 5 năm tới, doanh số của các quỹ mở qua kênh ngân hàng có thể chiếm 50% tổng doanh số”, ông Quang nhận định.

Tin bài liên quan